LỜI NÓI ĐẦU
Kính thưa: – HỘI ĐỒNG KIỂM TRA HẾT TẬP SỰ HÀNH NGHỀ LUẬT SƯ
– BAN CHỦ NHIỆM ĐOÀN LUẬT SƯ TP. Hồ CHÍ MINH
Tôi tên Trịnh Minh Phong, là người tập sự hành nghề luật sư tại Văn phòng luật sư Quốc Tuấn – Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh.
Trong quá trình tập sự tại Văn phòng luật sư Quốc Tuấn, tôi đã được Luật sư Bùi Quốc Tuấn – Trưởng Văn Phòng đã hướng dẫn và tạo điều kiện cho tiếp cận hồ sơ vụ việc để nghiên cứu, tham gia thảo luận, đưa ra quan điểm của mình về giải quyết các vụ việc và tham dự phiên tòa xét xử.
Thực hiện quy định về kiểm tra hết tập sự luật sư. Tôi xin kính trình Hội đồng kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư, hồ sơ kiểm tra thực hành của tôi. Bài kiểm tra hết tập sự luật sư này, được xây dựng trên cơ sở một vụ án dân sự mà Văn phòng luật sư Quốc Tuấn được khách hàng mời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn.
Vụ việc đã kết thúc theo đúng yêu cầu và sự hài lòng của khách hàng. Tuy nhiên, vì kiến thức pháp luật và kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên trong bài kiểm tra thực hành này không tránh khỏi những hạn chế cũng như thiếu sót. Kính mong Quý vị trong Ban giám khảo của Hội đồng kiểm tra hết tập sự, Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh giúp đỡ, góp ý để tôi có thêm nhiều kiến thức, kinh nghiệm để phục vụ cho quá trình hành nghề luật sư sau này.
Xin trân trọng cảm ơn Ban giám khảo Hội đồng kiểm tra hết tập sự, Ban chủ nhiệm Đoàn luật sư Tp Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi tham dự đợt kiểm tra hết tập sự hành nghề luật sư lần này. Cảm ơn Luật sư Bùi Quốc Tuấn – Trưởng Văn phòng luật sư Quốc Tuấn đã tận tâm hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình tập sự cũng như hướng dẫn, góp ý cho tôi thực hiện hồ sơ kiểm tra thực hành này.
Trân trọng,
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20/11/2010
Người tập sự hành nghề Luật sư
TRỊNH MINH PHONG
MỤC LỤC
Số thứ tự |
Nội dung |
Trang |
PHẦN I |
TÓM TẮT HỒ SƠ VỤ ÁN |
|
I |
NỘI DUNG VỤ ÁN |
2 – 3 |
II |
YÊU CẦU CỦA NGUYÊN ĐƠN |
3 |
III |
NHỮNG TÀI LIỆU CHỨNG CỨ CỦA VỤ ÁN |
3 – 4 |
PHẦN II |
LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO NGUYÊN ĐƠN |
4 – 8 |
PHẦN III |
KẾT QUẢ THỰC HIỆN VỤ ÁN |
8 – 10 |
PHẦN IV |
KIẾN NGHỊ |
10 – 11 |
PHỤ LỤC |
DANH MỤC TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM |
12 – 15 |
HỒ SƠ KIỂM TRA THỰC HÀNH
VỤ ÁN DÂN SỰ
TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG ĐẶT CỌC
Luật sư Bùi Quốc Tuấn – Trưởng Văn phòng Luật sư Quốc Tuấn, tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm tại Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công, Tỉnh Tiền Giang.
PHẦN I
TÓM TẮT HỒ SƠ VỤ ÁN
I. NỘI DUNG VỤ ÁN:
Ngày 31/07/2009, bà Nguyễn Thị Mỹ Hà là Giám đốc Công ty TNHH Bảo Khang, địa chỉ: 190 Ấp Bắc, Phường 5, TP Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang đồng thời là Tổng Đại lý Bảo hiểm nhân thọ cho Công ty Prudential Việt Nam tại Tiền Giang và ông Võ Văn Châu là Trưởng nhóm kinh doanh T40 mã số A60053195 – Công ty Prudential Việt Nam. Cùng lập biên bản thỏa thuận là bà Nguyễn Thị Mỹ Hà nhân danh Giám Đốc Công ty Bảo Khang sẽ chuyển nhượng 3 Văn phòng Tổng Đại lý Prudential của Công ty Bảo Khang tọa lạc tại: 190 Ấp Bắc, phường 5, Tp Mỹ Tho, 29/30C Quốc lộ 1A, Thị trấn Cai Lậy và 19 Nguyễn Huệ, phường 01, Thị xã Gò Công, Tỉnh Tiền Giang cho ông Võ Văn Châu. Ông Châu sẽ tiếp nhận 3 văn phòng Tổng Đại lý trên cùng toàn bộ máy móc trang thiết bị đang sử dụng và tiếp tục ký hợp đồng Tổng đại lý (TĐL) với Prudential. Giá sang nhượng là 750.000.000 đồng (Bằng chữ: Bảy trăm năm mươi triệu đồng chẵn). Số tiền đặt cọc để đảm bảo cho thỏa thuận này 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng), số tiền này sẽ không hoàn lại nếu ông Châu hủy bỏ thỏa thuận. Sau khi đặt cọc, ông Châu và bà Hà sẽ gửi vào tài khoản Ngân hàng (tài khoản phong tỏa) số tiền còn lại là 650.000.000 đồng và cùng ký để nhận ra thanh toán cho bà Hà sau khi ông Châu được Prudential chấp thuận việc chuyển nhượng. Nếu ông Châu không được Prudential chấp nhận làm Tổng Đại lý, bà Hà phải hoàn trả lại phần tiền đặt cọc (và lãi Ngân hàng nếu có) đã nhận. Thời hạn để hoàn tất việc chuyển nhượng này tối đa là (1) một tháng. Số tiền đặt cọc 100.000.000 đồng đã được ông Võ Văn Châu giao cho Giám đốc Công ty TNHH Bảo Khang là Bà Nguyễn Thị Mỹ Hà ngày 31/07/2010 và bà Hà đã ký xác nhận đã nhận tiền.
Trong quá trình thực hiện thỏa thuận, Công ty Prudential biết việc thỏa thuận chuyển nhượng Tổng Đại lý giữa ông Võ Văn Châu và Bà Nguyễn Thị Mỹ Hà – Giám đốc Công ty TNHH Bảo Khang, nên ngày 10/08/2009 Công ty Prudential Việt Nam đã mời ông Châu và bà Hà đến làm việc và yêu cầu hai bên chấm dứt việc thỏa thuận chuyển nhượng trên với lý do: phía Công ty Bảo Khang mà bà Hà là đại diện vi phạm các điều khoản của hợp đồng Tổng Đại lý. Do đó, ông Châu không thực hiện bước tiếp theo của thỏa thuận nộp 650.000.000 đồng vào tài phong tỏa tại Ngân hàng.
Ngày 01/09/2009, ông Châu có nhận được văn bản từ Công ty Prudential thông báo cho bà Nguyễn Thị Mỹ Hà, yêu cầu bà Hà ngưng việc chuyển nhượng trái quy định của Công ty và đề nghị bà Hà hoàn trả lại số tiền đặt cọc cho ông Võ Văn Châu.
Ngày 01/10/2009, ông Võ Văn Châu có văn bản yêu cầu bà Nguyễn Thị Mỹ Hà với tư cách là Giám đốc Công ty TNHH Bảo Khang, hoàn trả lại số tiền cọc 100.000.000 đồng mà bà Hà đã nhận của ông Châu. Tuy nhiên, Công ty TNHH Bảo Khang vẫn không thực hiện. Do đó, ngày 04/12/2009 ông Võ Văn Châu đã nộp đơn khởi kiện Công ty TNHH Bảo Khang do bà Nguyễn Thị Mỹ Hà là Giám đốc làm đại diện ra Tòa án nhân dân TP Mỹ Tho, Tỉnh Tiền Giang.
Trong quá trình thụ lý giải quyết thì vào ngày 14/01/2010, Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho đã ra Quyết định chuyển vụ án số 04/2010/QĐ-TA, V/v chuyển vụ án cho Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công giải quyết theo thẩm quyền. Lý do: Theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 532000235 ngày 31/12/2009 của Công ty TNHH Bảo Khang, thì Công ty TNHH Bảo Khang đã đăng ký thay đổi địa chỉ trụ sở chính của Công ty về địa chỉ số: 19 Nguyễn Huệ, phường 01, Thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang.
II. YÊU CẦU CỦA NGUYÊN ĐƠN:
Ông Võ Văn Châu yêu cầu Công ty TNHH Bảo Khang (Tổng Đại lý Bảo hiểm nhân thọ Prudential Việt Nam tại Tiền Giang) đại diện pháp luật bà Nguyễn Thị Mỹ Hà phải trả ngay cho ông Châu số tiền là 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) cộng với khoản tiền lãi đối với số tiền nêu trên theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kể từ ngày 31 tháng 07 năm 2009 cho đến ngày có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
III. NHỮNG TÀI LIỆU CHỨNG CỨ CỦA VỤ ÁN:
1. Biên bản thỏa thuận giữa ông Võ Văn Châu và Bà Nguyễn Thị Mỹ Hà -Giám đốc Công ty TNHH Bảo Khang ngày 31/07/2010;
2. Thông báo của Công ty Bảo hiểm nhân thọ Prudential ngày 01/09/2009;
3. Thông báo của Công ty Bảo hiểm nhân thọ Prudential ngày 15/11/2009;
4. Văn bản yêu cầu hoàn trả tiền đặt cọc của ông Võ Văn Châu gửi bà Nguyễn Thị Mỹ Hà ngày 01/10/2009;
5. Văn bản ngày 12/04/2010 của Công ty Bảo hiểm nhân thọ Prudential gửi ông Võ Văn Châu;
6. Công văn số 28/06.10/Legal ngày 16/06/2010 của Công ty Bảo hiểm nhân thọ Prudential gửi Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công;
7. Lời khai của các đương sự trong vụ án…
8. ….
PHẦN II
LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA NGUYÊN ĐƠN ÔNG VÕ VĂN CHÂU TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
Tại phiên tòa sơ thẩm TAND Thị xã Gò Công, tỉnh Tiền Giang, Luật sư Bùi Quốc Tuấn – Trưởng Văn phòng Luật sư Quốc Tuấn đã đưa ra luận cứ bảo vệ cho nguyên đơn ông Võ Văn Châu như sau:
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Tôi, luật sư Bùi Quốc Tuấn – Trưởng Văn phòng luật sư Quốc Tuấn thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Theo yêu cầu của ông Võ Văn Châu và được sự chấp thuận của Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công, tôi có mặt tại phiên tòa hôm nay để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho ông Võ Văn Châu là nguyên đơn trong vụ kiện tranh chấp hợp đồng đặt cọc với bị đơn là Công ty TNHH Bảo Khang.
Kính thưa Hội đồng xét xử !
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua lời trình bày của các đương sự, cũng như qua việc hỏi công khai tại phiên tòa hôm nay. Tôi xin trình bày một số ý kiến pháp lý. Kính đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
Tôi cho rằng việc nguyên đơn ông Võ Văn Châu khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH Bảo Khang phải hoàn trả số tiền đặt cọc là 100.000.000 đồng và khoản tiền lãi đối với số tiền nêu trên theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước kể từ ngày 31/07/2009, cho đến ngày bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật bởi các căn cứ sau đây:
1. Biên bản thỏa thuận giữa ông Võ Văn Châu và bà Nguyễn Thị Mỹ Hà -Giám đốc Công ty TNHH Bảo Khang ngày 31/07/2009, V/v chuyển nhượng 3 Văn phòng Tổng Đại lý Prudential tại địa chỉ: 190 Ấp Bắc, Phường 5, Tp Mỹ Tho, 29/30C Quốc lộ 1A, Thị trấn Cai Lậy và 19 Nguyễn Huệ, Phường 01, Thị xã Gò Công, Tỉnh Tiền Giang và việc bà Nguyễn Thị Mỹ Hà đã nhận 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) tiền đặt cọc của ông Võ Văn Châu là có thật. Căn cứ vào hồ sơ tài liệu có trong vụ án, lời khai của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay, phía nguyên đơn, bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ liên quan đều thừa nhận biên bản thỏa thuận ngày 31/07/2010 và việc bà Nguyễn Thị Mỹ Hà với tư cách là Giám đốc Công ty Bảo Khang đã nhận số tiền đặt cọc của ông Châu là 100.000.000 đồng.
2. Đại diện bị đơn, cũng như người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan cho rằng việc ông Võ Văn Châu không thực hiện bước tiếp theo là sau 04 ngày gửi vào tài khoản Ngân hàng (tài khoản phong tỏa), số tiền còn lại là 650.000.000 đồng và ông Châu đồng ý mất cọc với sự chứng kiến của ông Phan Tiến Hiệp và bà Đỗ Thị Hồng Loan. Do vậy việc thỏa thuận ngày 31/07/2009 không được tiếp tục thực hiện là do lỗi của phía ông Châu, nên Công ty TNHH Bảo Khang không phải có nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền đặt cọc cho ông Châu theo yêu cầu? Tôi cho rằng lập luận trên là không phù hợp với những tình tiết, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và không có căn cứ bởi các lý do sau đây:
– Thứ nhất: Bị đơn cho rằng nguyên đơn không thực hiện bước tiếp theo là sau 04 ngày phải gửi vào tài khoản phong tỏa tại Ngân hàng, số tiền còn lại là 650.000.000 đồng là không có căn cứ. Bởi lẽ, trong biên bản thỏa thuận ngày 31/07/2010 các bên có thỏa thuận “Sau khi đặt cọc, ông Châu và bà Hà sẽ gửi vào tài khoản Ngân hàng số tiền còn lại là 650.000.000 đồng và cùng ký để nhận ra thanh toán cho bà Hà sau khi ông Châu được Prudential chấp thuận việc chuyển nhượng”. Mặt khác, trong bản thỏa thuận cũng xác định “Thời gian để hoàn tất việc chuyển nhượng này tối đa là một tháng”. Chứ trong thỏa thuận, không hề có bất kỳ một điều khoản nào nói rằng ông Châu có nghĩa vụ nộp số tiền 650.000.000 đồng còn lại vào tài khoản Ngân hàng trong thời hạn 4 ngày. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa hôm nay phía bị đơn cũng không đưa ra được bất kỳ chứng cứ nào để chứng minh là có sự thỏa thuận giữa hai bên, về việc ông Châu phải thực hiện việc nộp số tiền trên vào tài khoản Ngân hàng trong thời hạn 4 ngày như bị đơn đã trình bày.
– Thứ hai: Bị đơn cho rằng ông Võ Văn Châu đã đồng ý mất cọc với sự chứng kiến của ông Phan Tiến Hiệp và bà Đỗ Thị Hồng Loan là không có căn cứ vì: Lời khai của hai người làm chứng là ông Phan Tiến Hiệp (tài xế của Công ty TNHH Bảo Khang) và bà Đỗ Thị Hồng Loan (Bạn của bà Nguyễn Thị Mỹ Hà – Giám đốc Công ty Bảo Khang) là không khách quan vì cả hai người đều có mối quan hệ thân thiết với Công ty Bảo Khang, cũng như với bà Hà. Hơn nữa việc bị đơn cho rằng ông Châu đồng ý mất số tiền đã đặt cọc cũng không được lập thành văn bản. Và theo lời khai của bà Nguyễn Thị Thùy Ngân – Đại diện theo ủy quyền của bị đơn, thì việc ông Châu đồng ý mất cọc không được lập thành văn bản bởi lẽ ông Châu và bà Hà chưa thống nhất với nhau. Như vậy, có thể khẳng định không có việc ông Châu đồng ý mất cọc vào ngày 04/08/2010 như lời trình bày của phía bị đơn.
– Thứ ba: Bị đơn cho rằng thỏa thuận ngày 31/07/2009 không được tiếp tục thực hiện là do lỗi của phía ông Châu vì ông Châu không nộp 650.000.000 đồng vào tài khoản phong tỏa tại Ngân hàng, nên Công ty TNHH Bảo Khang không có nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền cọc đã nhận, tôi cho rằng lập luận này cũng có cơ sơ, bởi lẽ:
+ Trong quá trình thực hiện thỏa thuận, thì Công ty Prudential biết được việc thỏa thuận giữa ông Châu và bà Hà nên ngày 10/08/2010, Công ty Prudential có mời ông Châu và bà Hà đến Công ty làm việc và yêu cầu 2 bên chấm dứt việc thực hiện thỏa thuận chuyển nhượng với lý do: phía bà Hà vi phạm các điều khoản của hợp đồng Tổng Đại lý. Trong văn bản của Công ty Prudential ngày 12/04/2010 gửi ông Võ Văn Châu và ông Châu đã nộp cho Tòa có khẳng định: Đầu tháng 8 năm 2009 “Sau khi nhận được thông tin từ phía đội ngũ đại lý, Công ty đã làm việc với ông Châu. Công ty đã kiểm tra và ông Châu có báo cáo lại sự việc đồng thời nộp bản sao giấy thỏa thuận với bà Hà. Ngày 10/8/2009 bộ phận chuyên môn có mời ông Châu và bà Hà lên gặp trao đổi về việc có liên quan. Nội dung cuộc trao đổi khẳng định rằng: thỏa thuận giữa hai bên là không phù hợp với quy định của Công ty”. Như vậy, Công ty Prudential đã ngăn chặn việc chuyển nhượng từ ngày 10/08/2009, vì thỏa thuận giữa ông Châu và bà Hà ngày 31/07/2010 không phù hợp với quy định của Công ty Prudential.
+ Mặt khác, trong văn bản của Công ty Prudential ngày 12/04/2010 gửi bà Nguyễn Thị Mỹ Hà, Công ty Prudential khẳng định “ông Võ Văn Châu không hội đủ các điều kiện để được Prudential chấp thuận giao cho thực hiện hoạt động Tổng Đại lý tại 3 văn phòng trên phạm vi toàn tỉnh Tiền Giang” và hơn nữa theo nội dung Công văn số 28/06.10/Legal ngày 16/6/2010, của Công ty Prudential gửi Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công thì Công ty Prudential cũng xác định: Theo quy định của Công ty Prudential và tại khoản 1 Điều VI Hợp đồng Tổng đại lý số GA 2009-057 ký ngày 01/10/2009 (thay thế cho hợp đồng ký ngày 01/10/2007) giữa Công ty Prudential và Công ty TNHH Bảo Khang về người đại diện như sau: “Người đại diện phải là người được Prudential chấp thuận và luôn luôn đáp ứng các tiêu chuẩn và điều kiện do Prudential quy định trong suốt thời hạn hiệu lực của Hợp đồng. Tổng Đại lý phải thông báo cho Prudential bất kỳ dự dịnh thay đổi nào mà Tổng Đại lý có thể thực hiện trong thời gian hiệu lực của Hợp đồng này bao gồm nhưng không giới hạn về người đại diện, số vốn góp,…việc đóng/mở các chi nhánh, văn phòng. Tổng đại lý chỉ được tiến hành những thay đổi nói trên khi có sự chấp thuận trước bằng văm bản của Prudential.
Theo đó, Công ty TNHH Bảo Khang chỉ được tiến hành chuyển nhượng văn phòng Tổng Đại lý cho người khác với điều kiện người nhận chuyển nhượng văn phòng Tổng Đại lý đó phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của Prudential và việc chuyển nhượng đó phải được Công ty Prudential chấp nhận trước bằng văn bản”. Và theo công văn ngày 01/09/2009 của Công ty Prudential gửi cho bà Nguyễn Thị Mỹ Hà, Prudential cũng khẳng định là ông Võ Văn Châu không hội đủ các điều kiện để được Prudential chấp thuận giao cho thực hiện hoạt động Tổng đại lý tại 3 văn phòng trên phạm vi toàn tỉnh Tiền Giang.
Như vậy, việc ông Châu không thực hiện bước tiếp theo của thỏa thuận ngày 31/07/2010 là nộp vào tài khoản Ngân hàng số tiền 650.000.000 đồng còn lại, là chấp hành đúng theo nội dung làm việc ngày 10/08/2009 của Công ty Prudential. Đối với Công ty TNHH Bảo Khang, theo nội dung các Công văn trên thì việc chuyển nhượng 3 văn phòng Tổng Đại lý cho ông Châu không thực hiện được vì vi phạm hợp đồng Tổng Đại lý với Prudential đã ký kết trong thời gian hiệu lực của hợp đồng. Như vậy, thỏa thuận ngày 31/07/2009, không thực hiện được là do lỗi của phía Công ty TNHH Bảo Khang. Do đó, Công ty TNHH Bảo Khang có nghĩa vụ hoàn trả 100.000.000 đồng tiền cọc đã nhận và lãi phát sinh cho ông Võ Văn Châu theo đúng biên bản thỏa thuận ngày 31/07/2010. Thỏa thuận ngày 31/07/2010 quy định “Nếu ông Châu không được Prudential chấp nhận làm Tổng Đại lý, bà Hà phải hoàn trả lại phần tiền đặt cọc…đã nhận”
3. Về yêu cầu của ông Võ Văn Châu đề nghị Công ty TNHH Bảo Khang, phải trả khoản tiền lãi đối với số tiền nêu trên theo lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam kể từ ngày 31 tháng 07 năm 2009 cho đến ngày có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án (tại phiên tòa hôm nay đại diện bị đơn đồng ý chỉ yêu cầu tính lãi đến ngày 31/07/2010), là hoàn toàn phù hợp với thỏa thuận của các bên trong biên bản thỏa thuận ngày 31/07/2010 và phù hợp với quy định của pháp luật.
– Trong biên bản thỏa thuận ngày 31/07/2010, hai bên có thỏa thuận “Nếu ông Châu không được Prudential chấp nhận làm Tổng Đại lý, bà Hà phải hoàn trả lại phần tiền đặt cọc (và lãi suất Ngân hàng nếu có)…”
– Và theo quy định tại Điều 305 Bộ luật dân sự 2005, quy định về trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Khoản 2 Điều 305 quy định: “Trong trường hợp bên có nghĩa vụ chậm trả tiền thì bên đó phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Và theo quy định tại Quyết định số 1819/QĐ-NHNN ngày 27/07/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thì mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 8%/năm. Như vậy khoản tiền lãi Công ty TNHH Bảo Khang phải trả cho ông Võ Văn Châu là:
Lãi phải trả =100.000.000 x 8%/năm x (31/07/2010 đến 31/07/2010) # 1 năm = 8.000.000 đồng.
Kính thưa Hội đồng xét xử,
Căn cứ vào những chứng cứ đã được Hội đồng xét xử xem xét và thẩm tra, qua phần hỏi và tranh luận công khai tại phiên tòa cũng như căn cứ những luận điểm bảo vệ cho nguyên đơn ông Võ Văn Châu mà chúng tôi vừa trình bày. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn ông Võ Văn Châu, chúng tôi kiến nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu của nguyên đơn ông Võ Văn Châu, buộc Công ty TNHH Bảo Khang hoàn trả số tiền cọc đã nhận là 100.000.000 đồng và khoản tiền lãi trên số tiền trên là 8.000.000 đồng, tổng cộng số tiền Công ty TNHH Bảo Khang phải trả cho ông Châu tính đến ngày xét xử là 108.000.000 đồng (một trăm lẻ tám triệu đồng).
Kính mong Hội đồng xét xử xem xét giải quyết để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trong vụ kiện.
Chân thành cảm ơn sự lắng nghe của Quý Tòa.
Luật sư Bùi Quốc Tuấn
PHẦN III
KẾT QUẢ THỰC HIỆN VỤ ÁN
– Ngày 28 tháng 7 năm 2010 Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công ban hành quyết định đưa ra xét xử số 81/2010/QĐST-DS đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án dân sự về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” hồ sơ thụ lý số 52/2010/TLST – DS ngày 03/02/2010.
– Ngày 12/08/2010 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 52/2010/TLST – DS ngày 03/02/2010 (theo quyết định chuyển vụ án số 04/2010/QĐ-TA ngày 14/01/2010 của Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho) về việc tranh chấp hợp đồng đặt cọc” theo Quyết định đưa ra xét xử số 81/2010/QĐST-DS ngày 28/07/2010.
– Bản án sơ thẩm số 142/2010/DS-ST ngày 12/08/2010 về việc “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” của Tòa nhân dân Thị xã Gò Công đã tuyên như sau:
Trích bản án:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng: khoản 2 Điều 305, Điều 358 Bộ luật dân sự; Điều 131 Bộ luật Tố tụng dân sự; Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội số 10/2009/PL-UBTVQH12 ngày 27 tháng 02 năm 2009.
Xử:
– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Võ Văn Châu.
– Buộc Công ty TNHH Bảo Khang có trách nhiệm trả cho anh Châu số tiền đặt cọc và lãi tổng cộng là 108.000.000 đồng (một trăm lẻ tám triệu đồng).
Thời gian trả ngay khi án có hiệu lực Pháp luật.
Các bên giao nhận tiền tại Thi hành án dân sự Thị xã Gò Công.
– Về án phí:
+ Anh Châu không phải chịu án phí DSST. Hoàn lại anh Châu số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 2.500.000 đồng theo biên lai thu số 006020 ngày 09/12/2009 của Thi hành án dân sự Thành phố Mỹ Tho.
+ Công ty Bảo Khang phải nộp 5.400.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Kể từ khi anh Châu có đơn yêu cầu Thi hành án, nếu Công ty TNHH Bảo Khang chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền theo thời gian trên thì phải chịu thêm khoản lãi theo mức lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước quy định tương ứng với thời gian và số tiền chậm thi hành án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tư nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sư; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, báo cáo cho các đương sự biết được quyền kháng cáo bản án đến Tòa án nhân dân Tỉnh Tiền Giang để yêu cầu xét xử phúc thẩm.
PHẦN IV
KIẾN NGHỊ
Đề nghị cho người tập sự hành nghề luật sư được tham gia nhiều hơn trong hoạt động nghề nghiệp.
Căn cứ theo khoản 3 Điều 14 Luật luật sư có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2007 thì người tập sự hành nghề luật sư chỉ được thực hiện theo quy định là “Người tập sự hành nghề luật sư được giúp luật sư hướng dẫn trong hoạt động nghề nghiệp; không được nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng”, như vậy người tập sự hành nghề luật sư chỉ được tập sự và học tập trên các tài liệu do luật sư hướng dẫn cung cấp, ngoài ra không được tham gia vào các hoạt động nghề nghiệp khác rất cần thiết cho quá trình thực tập hành nghề luật sư như: gặp bị can, bị cáo, tiếp xúc với đương sự, tham gia tố tụng tại tòa, thực hiện tư vấn pháp luật và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng…
So sánh với Pháp lệnh luật sư năm 2001 và Nghị định số 94/2001/NĐ-CP ngày 12/12/2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh luật sư. Tại khoản 2 Điều 5 Chương II của Nghị định số 94/2001/NĐ-CP quy định: “Luật sư tập sự được tham gia tố tụng trong các vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện, Tòa án quân sự khu vực theo sự phân công của luật sư hướng dẫn và khi được khách hàng đồng ý. Khi tham gia tố tụng, luật sư tập sự có các quyền và nghĩa vụ của luật sư theo quy định của pháp luật tố tụng và Pháp lệnh luật sự. Đối với những vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự quân khu và tương đương, luật sư tập sự được cùng với luật sư hướng dẫn nghiên cứu hồ sơ, gặp bị can, bị cáo và đương sự khác khi được họ đồng ý.
Luật sư tập sự được thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác cho khách hàng theo sự phân công của luật sư hướng dẫn khi được khách hàng đồng ý, nhưng không được ký văn bản tư vấn pháp luật và chịu trách nhiệm về chất lượng công việc mà minh thực hiện trước luật sư hướng dẫn và tổ chức hành nghề luật sư nơi mình tập sự”. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư và Nghị định của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh luật sư, thì luật sư tập sự được tham gia hầu hết các hoạt động nghề nghiệp gần như luật sư chính thức, điều này giúp cho người tập sự được thâm nhập vào thực tế, có nhiều cơ hội để vận dụng kiến thức đã học vào thực tiễn của nghề nghiệp, tạo điều kiện cho người tập sự nắm vững chuyên môn hơn, nâng cao trình độ nghiệp vụ và trích lũy kinh nghiệm nghề nghiệp của mình.
Như vậy, so sánh với Pháp lệnh luật sư 2001 đã hết hiệu lực kể từ ngày Luật luật sư có hiệu lực thi thành thì Luật luật sư đã hạn chế rất nhiều quyền tham gia các hoạt động nghề nghiệp của người tập sự hành nghề luật sư, điều này gây nhiều khó khăn cho người tập sự nghề luật sư trong việc gắn kết giữa lý thuyết được đào tạo và thực tiễn công việc, trong việc hoàn thiện chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng tay nghề.
Chân thành cảm ơn Hội đồng Giám khảo.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 20 tháng 11 năm 2010
Tập sự luật sư
TRỊNH MINH PHONG
DANH MỤC TÀI LIỆU ĐÍNH KÈM
1. Bản án sơ thẩm số 142/2010/DS-ST ngày 12/08/2010 “V/v tranh chấp hợp đồng đặt cọc” của Tòa nhân dân Thị xã Gò Công, Tỉnh Tiền Giang;
2. Biên bản thỏa thuận giữa ông Võ Văn Châu và Bà Nguyễn Thị Mỹ Giám đốc Công ty TNHH Bảo Khang ngày 31/07/2010;
3. Thông báo của Công ty Prudential ngày 01/09/2009;
4. Văn bản yêu cầu hoàn trả tiền đặt cọc của ông Châu gửi bà Hà ngày 01/10/2009;
5. Thông báo của Công ty Prudential ngày 15/11/2009;
6. Văn bản ngày 12/04/2010 của Công ty Prudential gửi ông Võ Văn Châu;
7. Công văn số 28/06.10/Legal ngày 16/06/2010 của Công ty Prudential gửi Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công;
8. Quyết định số 1819/QĐ-NHNN ngày 27/07/2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, về mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam;
9. Đơn khởi kiện của ông Võ Văn Châu đối với Công ty TNHH Bảo Khang ký ngày 02/12/2009;
10. Phiếu nhận đơn kiện 04/12/2009 của Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho;
11. Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 006020 ngày 09/12/2009 của Thi hành án dân sự Thành phố Mỹ Thọ;
12. Thông báo về việc thụ lý vụ án số 405/TB-TLVA ngày 09/12/2009 của TAND Thành phố Mỹ Tho;
13. Quyết định chuyển vụ án dân sự số 04/2010/QĐ-TA ngày 14/01/2010 của TAND Thành phố Mỹ Tho;
14. Thông báo về việc thụ lý vụ án số 52/TB-TLVA ngày 03/02/2010 của TAND Thị xã Gò Công;
15. Biên bản lấy lời khai nguyên đơn ông Võ Văn Châu ngày 23/06/2010;
16. Bản tự khai của đại diện theo pháp luật của bị đơn bà Nguyễn Thị Mỹ Hà ngày 07/07/2010;
17. Biên bản lấy lời khai của người làm chứng ông Phan Tiến Hiệp ngày 29/06/2010;
18. Biên bản lấy lời khai của người làm chứng bà Đỗ Thị Hồng Loan ngày 29/06/2010;
19. Biên bản hòa giải ngày 25/03/2010;
20. Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2010/QĐST –DS ngày 28/07/2010 của Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công;
21. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của ông Võ Văn Châu gửi TAND Thị xã Gò Công (V/v: phong tỏa tài khoản của Công ty TNHH Bảo Khang ngày 01/02/2010);
22. Công văn số 10/CV-TA ngày 05/02/2010 của TAND Thị xã Gò Công V/v đề nghị Công ty Bảo hiểm nhân thọ Prudential tạm quản lý số tiền 100.000.000 đồng đối với thu nhập của Công ty TNHH Bảo Khang;
23. Đơn cứu xét ngày 04/03/2010 của bà Cao Thị Thu Hà gửi TAND, VKSND, Chánh án TAND Thị xã Gò Công;
24. Công văn số 14/CV-TA ngày 09/03/2010 của TAND Thị xã Gò Công gửi Công ty Bảo hiểm nhân thọ Prudential, V/v thu hồi lại Công văn số 10/CV-TA ngày 05/02/2010;
25. Quyết định thực buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số 01/2010/QĐ – BPBĐ ngày 19/03/2010 của TAND Thị xã Gò Công. Buộc ông Võ Văn Châu phải gửi tài sản bảo đảm là 90.000.000 đồng vào tài khoản phong tỏa tại Ngân hàng NN & PTNT Việt Nam Chi nhánh Thị xã Gò Công;
26. Công văn số 16/CV-TA ngày 19/03/2010 của TAND Thị xã Gò Công gửi Ngân hàng NN & PTNT Chi nhánh tỉnh Tiền Giang đề nghị phong tỏa tài khoản của ông Võ Văn Châu;
27. Thông báo phong tỏa tài khoản ngày 19/03/2010 của Ngân hàng NN & PTNT Chi nhánh tỉnh Tiền Giang gửi TAND Thị xã Gò Công;
28. Đơn kiến nghị và yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời ngày 15/03/2010 của ông Võ Văn Châu gửi TAND Thị xã Gò Công (V/v: kiến nghị Tòa án Thị xã Gò Công thụ lý giải quyết vụ kiện và áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản thu nhập của Công ty TNHH Bảo Khang);
29. Công văn số 18/TA ngày 19/03/2010 của TAND Thị xã Gò Công gửi Công ty Prudential V/v đề nghị cung cấp số tài khoản của Công ty Bảo Khang;
30. Văn bản số 15/03.10/Legal ngày 26/03/2010 của Công ty Prudential gửi TAND Thị xã Gò Công V/v thông báo số tài khoản của Công ty Bảo Khang;
31. Đơn kiến nghị Tòa án thu thập chứng cứ ngày 26/03/2010 của ông Võ Văn Châu gửi TAND Thị xã Gò Công (V/v kiến nghị TAND Thị xã Gò Công thu thập chứng cứ, đối với văn bản trả lời của Công ty Prudential Việt Nam ngày 15/11/2009;
32. Đơn kêu cứu của ông Võ Văn Châu ngày 14/04/2010 gửi Chánh án TAND Thị xã Gò Công, Viện Trưởng VKS Thị xã Gò Công, Chánh án TAND Tỉnh Tiền Giang, Viện Trưởng VKS Tỉnh Tiền Giang (V/v Chánh án Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công không thực hiện việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời);
33. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (lần 2) ngày 26/04/2010 của ông Võ Văn Châu gửi TAND Thị xã Gò Công V/v đề nghị áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản thu nhập của Công ty Bảo Khang;
34. Công văn số 27/TA ngày 27/04/2010 của Thị xã Gò Công gửi Ngân hàng Ngoại Thương TP. HCM – Phòng giao dịch 3, V/v đề nghị cung cấp số tiền hiện có trong tài khoản của Công ty Bảo Khang;
35. Công văn số 470/HCM.PGD3 ngày 04/05/2010 của Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Chi nhánh TP. Hồ Chí Minh gửi TAND Thị xã Gò Công;
36. Công văn số 28/TA ngày 06/05/2010 của TAND Thị xã Gò Công gửi ông Võ Văn Châu;
37. Đơn kiến nghị Tòa án thu thập chứng cứ ngày 17/05/2010 của ông Võ Văn Châu gửi TAND Thị xã Gò Công;
38. Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời lần 3 của ông Võ Văn Châu ngày 20/05/2010 gửi TAND Thị xã Gò Công, V/v Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài khoản thu nhập của Công ty TNHH Bảo Khang;
39. Công văn số 34/TA ngày 27/05/2010 của TAND Thị xã Gò Công gửi Công ty Prudential;
40. Đơn kiến nghị tòa án sơm đưa vụ án ra xét xử ngày 16/06/2010 của ông Võ Văn Châu gửi TAND Thị xã Gò Công;
41. Giấy chứng nhân đăng ký kinh doanh lần đầu số 5302000235 ngày 01/03/2006 của Công ty TNHH Bảo Khang do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Tiền Giang cấp;
42. Văn bản số 76/TB- ĐKKD ngày 12/01/2010 của Văn phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư Tỉnh Tiền Giang gửi Văn Phòng Luật sư Quốc Tuấn, V/v cung cấp thông tin của Công ty TNHH Bảo Khang;
43. Giấy chứng nhân đăng ký kinh doanh đăng ký thay đổi lần 5, số 5302000235 ngày 31/12/2009 của Công ty TNHH Bảo Khang do Phòng đăng ký kinh doanh Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Tiền Giang cấp;
44. Bản giải trình của bà Nguyễn Thị Mỹ Hà ngày 01/02/2010 gửi TAND Thị xã Gò Công;
45. Đơn yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng của Công ty Bảo Khang ngày 15/03/2010 gửi TAND Thị xã Gò Công;
46. Đơn xin từ chối tiến hành tố tụng ngày 26/03/2010 của Thẩm phán Huỳnh Xuân Long;
47. Đơn yêu cầu Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ông Võ Văn Châu gửi Văn phòng Luật sư Quốc Tuấn ngày 25/11/2009;
48. Giấy ủy quyền của ông Võ Văn Châu cho ông Trần Xuân Thiện ngày 08/01/2010;
49. Giấy ủy quyền của Bà Nguyễn Thị Mỹ Hà Giám đốc Công ty Bảo Khang ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thùy Ngân;
50. Hợp đồng Tổng Đại lý Bảo hiểm Nhân thọ giữa Công ty BHNT Prudential Việt Nam và Công ty TNHH Bảo Khang ngày 01/10/2007;
**************
Sư tầm
báo cáo thực hành, báo cáo tập sự luật sư, luật sư, thi luật sư