Bài viết này tập trung vào ba nhân vật quan trọng trong thủ tục tố tụng: các luật sư, nguyên đơn và các nhóm lợi ích. Các thẩm phán ở Mỹ ra phán quyết chỉ trong các vụ án được các cá nhân hay nhóm có bất đồng hay tranh chấp với nhau đưa ra tòa. Những đối thủ này, thường được gọi là nguyên đơn, đôi khi tự tranh tụng trong những vụ án của mình tại các cơ quan xét xử nhỏ như tòa khiếu nại, nhưng họ hầu như thường được đại diện bởi các luật sư trong những vũ đài pháp lý quan trọng hơn. Sau khi xem xét nghề luật chuyên nghiệp, chương này sẽ bàn về vai trò của từng nguyên đơn và nhóm lợi ích trong thủ tục tố tụng.
CÁC LUẬT SƯ VÀ NGHỀ LUẬT CHUYÊN NGHIỆP
Việc đào tạo các luật sư và hành nghề luật ở Mỹ đã có những bước phát triển theo thời gian. Ngày nay, các luật sư Mỹ hành nghề trong hàng loạt môi trường và hoàn cảnh khác nhau.
Sự phát triển của nghề luật chuyên nghiệp
Trong thời kỳ thuộc địa ở Mỹ (1607-1776), không có các trường luật để đào tạo những người quan tâm đến chuyên ngà nh luật. Một số người trẻ tuổi đã đến Anh để theo học luật và tham gia vào các hội quán của Hội luật gia Anh. Những hội quán này không phải là các trường luật chính thứ c, nhưng chúng là một phần của văn hóa pháp lý Anh quốc và giúp cho các sinh viên gần gũi hơn với luật pháp Anh. Những người mong muốn theo nghề luật trong thời kỳ này thường làm thư ký hoặc người học việc cho một luật sư danh tiếng.
Sau cuộc Cách mạng Mỹ (1775- 1783), số luật sư tăng lên nhanh chóng do cả việc giáo dục pháp lý và quyền hành nghề luật sư không bị giới hạn chặt chẽ. Phương pháp học việc tiếp tục là cách thức phổ biến nhất để được đào tạo pháp luật nhưng các trường luật cũng đã bắt đầu xuất hiện. Những trường luật đầu tiên bắt nguồn từ những văn phòng luật chuyên về đào tạo thư ký và người học việc. Trường sớm nhất như vậy là Trường Litchfield ở Connecticut, được thành lập năm 1784. Trường này dạy theo phương pháp bài giảng chủ yếu tập trung vào luật thương mại. Cuối cùng, một số trường đại cương đã bắt đầu đưa môn luật thành một phần trong chương trình giảng dạy chung, và trong năm 1817 một trường luật độc lập đã được thành lập ở trong trường Đại học Harvard.
Trong nửa cuối thế kỷ XIX, số trường luật tăng mạnh, từ 15 trường năm 1850 đến 102 trường năm 1900. Các trường luật vào thời gian đó và những trường luật ngày nay có hai điểm khác biệt quan trọng. Thứ nhất, các trường luật vào thời gian đó không thường xuyên yêu cầu phải học qua đại cương. Thứ hai, chương trình giảng dạy tiêu chuẩn của trường luật vào năm 1850 có thể được hoàn thành trong một năm. Vào thời gian sau này của những năm 1800, nhiều trường luật đã xây dựng các chương trình hai năm.
Năm 1870 đã bắt đầu có những thay đổi quan trọng ở trường Đại học Harvard có tác động lâu dài đối với đào tạo pháp luậ t. Đại học Harvard đã xây dựng những yêu cầu đầu vào / tuyển chọn khắt khe hơn; các sinh viên không có bằng đại cương sẽ phải thi đầu vào. Khóa học của trường luật tăng lên thành hai năm vào năm 1871 và thành ba năm vào năm 1876. Tương tự như vậy, các sinh viên bắt buộc phải vượt qua những kỳ thi cuối của năm thứ nhất trước khi tiếp tục theo học các khóa học của năm thứ hai.
Tuy nhiên, thay đổi lâu dài nhất là việ c bắt đầu áp dụng phương pháp giả ng dạy theo tình huống / vụ án. Phương pháp này thay thế các bài giảng và sách giáo khoa bằng các tuyển tập tình huống (tập hợp báo cáo các vụ án trên thực tế) được thiết kế để giải thích những nguyên tắc luật pháp, chúng có ý nghĩa gì, và chúng được phát triển như thế nào. Các giáo viên sử dụng phương pháp Xô-crát để hướng dẫn sinh viên khám phá những khá i niệm pháp luật trong các vụ án. Các trường khác cuối cùng cũng áp dụng phương pháp của Đại học Harvard, và phương pháp giảng dạy theo tình huống / vụ án vẫn là phương pháp giảng dạy được thừa nhận ở nhiều trường luật ngày nay.
Do nhu cầu về các luật sư tăng lên trong những năm cuối thập niên 1800 nên số trường luật mới được thành lập cũng tăng lên tương ứng. Việc mở một trường luật cũng không quá tốn kém, và số trường học ban đêm sử dụng các luật sư và thẩm phán làm cán bộ giảng dạy bán thời gian bắt đầu xuất hiện. Các tiêu chuẩn khi đó thường lỏng lẻo và chương trình giảng dạy dường như chú trọng đến tập quán địa phương. Đóng góp quan trọng của những trường này là ở chỗ chúng giúp cho việc đào tạo trở nên dễ dàng hơn đối với các sinh viên nghèo, nhập cư và thuộc tầng lớp lao động.
Trong thế kỷ XX, số người muốn nghiên cứu luật đã tăng lên mạnh mẽ. Cho đến những năm 1960, số người nộp đơn vào các trường luật đã tăng đến mức gần như tất cả các trường đều trở nên kén sinh viên hơn. Đồng thời, để thích ứng với sức ép và tranh chấp xã hội, nhiều trường luật đã bắt đầu tích cực tuyển dụng những người nộp đơn là phụ nữ và thuộc các nhóm thiểu số.
Cũng đến những năm 1960, chương trình giảng dạy ở một số trường luật đã mở rộng sang những mối quan tâm xã hội như luật các quyền công dân và các vấn đề về “luật và sự nghèo khổ”. Các khóa học về luật quốc tế cũng được đưa vào chương trình giảng dạy.
Một chiều hướng gần đây hơn ở các trường luật là chú trọng vào việc sử dụng máy tính cho mọi công việc từ chỉ dẫn đăng ký lớp học đến mẫu đăng ký tiếp xúc với tòa án và các dịch vụ dành cho sinh viên. Một điều đáng chú ý khác là ngày càng có nhiều trường luật đưa ra các khóa học hoặc chương trình đặc biệt về luật sở hữu trí tuệ, một lĩnh vực chuyên môn hóa đã phát triển đáng kể trong những năm gần đây. Cuối cùng, việc các luật sư sử dụng quảng cáo ngày càng nhiều đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với nghề luật. Giờ đây, trên các đài truyền hình ở khắp đất nước, mọi người có thể nhìn thấy các luật sư tiến hành kháng án để thu hút những khách hàng mới. Hơn nữa, các trung tâm tư vấn pháp luật, được thành lập do việc sử dụng quảng cáo ngày càng nhiều, đã phát triển nhanh chóng.
Sự phát triển và phân tầng
Số lượng luật sư ở nước Mỹ tăng đều trong nửa thế kỷ trước và hiện nay ước tính đạt khoảng hơn 950.000 người. Vậy tất cả những luật sư ở Mỹ tìm công việc ở đâu?
Hội đồng thi tuyển vào các trường luật đưa ra một số câu trả lời trong cuốn Hướng dẫn chính thức về các trường luật của Mỹ ấn bản năm 2001. Gần ba phần tư (72,9%) các luật sư của Mỹ hành nghề ở khu vực tư nhân, một số người làm việc tại các văn phòng một người và số khác làm trong các công ty luật lớn hơn nhiều. Khỏang 8,2% thành viên chuyên ngành luật làm việc cho các tổ chức chính phủ, gần 9,5% làm việc cho các ngành và hiệp hội tư nhân với tư cách là luật sư hoặc nhà quản lý, khoảng 1,1% làm việc cho các tổ chức hỗ trợ luật hoặc với tư cách là luật sư bào chữa đại diện cho những người không có khả năng trả tiền cho luật sư, và 1% làm việc trong hoạt động giáo dục pháp luật. Khoảng 5% số luật sư của đất nước đã nghỉ hưu hoặc không hoạt động nữa.
Các luật sư của Mỹ nộp đơn xin đào tạo chuyên ngành trong rất nhiều hoàn cảnh khác nhau. Một số môi trường làm việc có lợi nhuận và uy thế cao hơn nhiều so với những nơi khác. Điều này đã dẫn đến cái gọi là sự phân tầng.
Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mức độ uy thế là loại chuyên ngành luật và loại khách hàng được phục vụ. Các luật sư với chuyên ngành riêng phục vụ cho các hãng kinh doanh và tổ chức lớn chiếm nửa trên; còn những người đại diện cho lợi ích của các cá nhân thuộc nửa dưới.
Ở tầng trên của bậc thang danh vọng là các công ty luật lớn của quốc gia. Luật sư trong các hãng này từ trước đến nay được biết đến không phải nhờ xuất hiện ở tòa án, mà nhờ những tư vấn cho khách hàng. Khách hàng phải có khả năng chi trả cho những chuyên gia xuất sắc này, và do vậy họ thường là các doanh nghiệp lớn hơn là các cá nhân. Tuy nhiên, nhiều công ty luật lớn của quốc gia thường cung cấp các dịch vụ pháp luật “pro bono” (tiếng Latinh có nghĩa là “hàng hóa công cộng” hay miễn phí) cho các quyền công dân, tự do công dân, lợi ích người tiêu dùng, và các vấn đề về môi trường.
Các công ty luật lớn của quốc gia có nhiều thành viên và người cộng tác. Các thành viên sở hữu công ty luật và được trả một phần trong lợi nhuận của công ty. Những người cộng tác được trả lương và thực chất là làm việc cho các thành viên. Những công ty lớn này cạnh tranh để có được những sinh viên xuất sắc nhất tốt nghiệp từ các trường luật quốc gia. Những công ty luật uy tín nhất có từ 250 luật sư trở lên và cũng tuyển dụng hàng trăm người khác làm công việc bán pháp lý (những người không phải là luật sư nhưng được đào tạo chuyên biệt để xử lý nhiều thủ tục thường nhật của công việc pháp lý), các nhà quản lý, quản thủ thư viện và thư ký.
Ở một mức độ thấp hơn những người làm việc cho các công ty luật lớn của quốc gia là những người được các doanh nghiệp lớn tuyển dụng làm luật sư riêng. Nhiều doanh nghiệp sử dụng các công ty luật của quốc gia như nguồn cố vấn bên ngoài. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này ngày càng có xu hướng thuê nhiều luật sư được trả lương của riêng họ làm cố vấn nội bộ. Bộ phận pháp chế của một vài doanh nghiệp có quy mô lớn hơn so với của các hãng tư nhân. Hơn nữa, các doanh nghiệp này còn cạnh tranh với các công ty luật lớn để có được những sinh viên luật xuất sắc nhất.
Thay vì đại diện cho doanh nghiệp tại tòa án (một nhiệm vụ thường được xử lý bởi nguồn cố vấn bên ngoài trong trường hợp cần thiết), bộ phận pháp chế xử lý hàng loạt những vấn đề pháp lý mà các doanh nghiệp hiện nay gặp phải. Chẳng hạn, bộ phận pháp chế giám sát hoạt động của nhân viên doanh nghiệp để bảo đảm những hoạt động này tuân thủ các quy định của liên bang và bang về thuê và thôi việc người lao động. Các luật sư của doanh nghiệp có thể cố vấn cho hội đồng quản trị về những vấn đề như thỏa ước hợp đồng, sáp nhập, bán cổ phần và những hoạt động kinh doanh khác. Các luật sư của công ty cũng có thể đào tạo các nhân viên khác về những quy định luật pháp áp dụng trong công việc cụ thể của họ và bảo đảm rằng họ tuân thủ những quy định đó. Bộ phận pháp chế của một công ty lớn cũng hoạt động như là cầu nối với nguồn cố vấn bên ngoài.
Hầu hết các luật sư của Mỹ làm việc trong nửa dưới của nghề luật xét về danh vọng / uy tín và không đòi hỏi mức lương cao như trong các công ty luật lớn của quốc gia và các doanh nghiệp hàng đầu. Tuy nhiên, họ tham gia vào rất nhiều hoạt động và thường thấy họ trong và ngoài giờ làm việc tại các phòng xử án của nước Mỹ. Đó là những luật sư đại diện cho khách hàng trong các vụ kiện tai nạn cá nhân, khởi tố và bào chữa cho những người bị buộc tội hình sự, đại diện cho các ông chồng và bà vợ trong các vụ ly hôn, giúp mọi người tiến hành các giao dịch về bất động sản và giúp mọi người soạn di chúc – đó chỉ là một số ít trong các hoạt động của họ.
Các luật sư làm việc cho chính phủ thường thuộc nửa dưới của nghề luật. Một vài người, chẳng hạn tổng chưởng lý Mỹ và tổng cố vấn pháp luật của Mỹ, chiếm những vị trí đầy quyền thế, nhưng đa phần những người khác làm việc cực nhọc ở những vị trí thấp kém và được trả lương ít ỏi. Rất nhiều luật sư lựa chọn những nghề khác như thẩm phán ở tòa án cấp liên bang hoặc bang.
Một khác biệt khác về sự chuyên môn hóa trong nghề luật là giữa các luật sư của bên nguyên và bên bị. Các luật sư của bên nguyên khởi xướng các vụ kiện, còn các luật sư của bên bị bào chữa cho những người bị buộc tội có hành động phạm pháp trong các vụ án dân sự và hình sự.
Theo USIS