Công ty luật, văn phòng luật sư: Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam: Ba chiếc cánh nâng đỡ nền tư pháp

4

Liên quan Đề án “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam”, về phía Đảng Đoàn LĐLSVN đã có văn bản đóng góp ý kiến cho Đề án của Ban cán sự Đảng VKSNDTC. Về phần mình, xuất phát từ một số kết quả nghiên cứu và thực tiễn hành nghề luật sư gần 23 năm qua, tôi xin được góp ý thêm một số điểm cụ thể như sau:

1. Xây dựng mô hình TTHS theo hướng tăng cường tranh tụng, phù hợp với truyền thống văn hóa, điều kiện lịch sử, kinh tế, xã hội của Việt Nam:

Về mặt nhận thức, chúng tôi nghĩ cải cách tư pháp hình sự, trong đó có việc xây dựng mô hình tố tụng hình sự (TTHS) phù hợp với điều kiện lịch sử và cấu trúc tổ chức bộ máy Nhà nước của Việt Nam, được coi là một trong những nội dung quan trọng của cải cách tư pháp theo Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị. Nếu Đề án này được xây dựng và hoàn thiện, sẽ góp phần chuyển biến mạnh mẽ trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng (THTT), nâng cao trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và vai trò của các thiết chế bổ trợ tư pháp, trong đó có vai trò quan trọng của người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Đề án sẽ khắc phục những mặt hạn chế , bất cập của mô hình tố tụng hình sự hiện nay, không chỉ đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, mà còn góp phần dân chủ hóa tố tụng, tôn trọng và bảo vệ quyền con người trong hoạt động tư pháp.

Vấn đề đặt ra ở đây là trong Đề án đã phân tích rất kỹ, dựa trên các thông tin, đánh giá về những ưu điểm và hạn chế của các mô hình tố tụng thẩm vấn và mô hình tố tụng tranh tụng trên thế giới, nên mấu chốt nhất là luận chứng và xây dựng được mô hình TTHS xuất phát từ thực tiễn, truyền thống văn hóa, điều kiện lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội, thể chế và pháp luật của Việt Nam.

Mặt khác, thực tiễn TTHS của Việt Nam từ năm 1945 đến nay được xây dựng trên nền tảng mô hìnhTTHS thẩm vấn, nhưng đã được bổ sung các yếu tố tranh tụng trong Bộ luật TTHS năm 2003. Là người hành nghề luật, va đập trong thực tiễn TTHS, chúng tôi nhận thấy chủ trương “nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp” được nêu trong Nghị Quyết số 49-NQ/TW là một chủ trương hết sức đúng đắn, đã phát huy được những giá trị hiệu lực trong đời sống tố tụng. Đó cũng chính là định hướng quan trọng, thể hiện tinh thần tiếp thu có chọn lọc, nhằm bổ sung vào Bộ luật TTHS (sửa đổi) sắp tới những yếu tố hợp lý của hệ thống tố tụng tranh tụng, nhất là tranh tụng tại phiên toà, tăng cường tính dân chủ, công khai, minh bạch trong việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự.

Tuy nhiên, trên thực tế, hiện nay việc khởi tố, tiến hành điều tra và đề nghị truy tố vẫn thuộc phần chủ động của CQĐT, vai trò của VKS có phần thụ động, Tòa án thay vì đóng vai trò là trọng tài khách quan, lại đang trở thành một chủ thể buộc tội. Sự giao thoa giữa mô hình tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng theo hướng tăng cường tranh tụng tại phiên tòa chưa cho thấy liều lượng điều tiết mức độ “pha trộn” cụ thể, dẫn đến về hình thức thì có tăng thêm trình tự phát biểu tranh tụng và nhấn mạnh đến vai trò của luật sư, nhưng về bản chất do nhiều cơ chế và áp lực khác nhau, Tòa án vẫn dường như đã định đoạt trước số phận pháp lý, triệu tiêu con đường tiếp cận công lý của công dân, tổ chức.

Chính vì vậy, chúng tôi ủng hộ một trong những phương hướng nêu trong Đề án là cần “tăng cường tranh tụng trong hoạt động TTHS”, coi đây là tư tưởng mang tính đột phá, xuyên suốt các nội dung đổi mới và hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam. Chủ trương tăng cường tranh tụng là nhằm mở rộng và tăng cường hơn nữa môi trường dân chủ, tính công khai, công bằng của quá trình giải quyết vụ án hình sự; thiết lập các cơ chế để bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền con người, bảo đảm quyền dân chủ cho bị can, bị cáo và người đại diện của họ, mở ra các khả năng và điều kiện tốt nhất để họ thực hiện quyền bào chữa; bảo đảm quá trình giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, triệt để, vô tư; bảo đảm việc giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Trong đó, vấn đề nâng cao vị trí, vai trò quan trọng của người bào chữa, trong đó có đội ngũ luật sư chuyên nghiệp ngày càng trưởng thành và lớn mạnh hiện nay, coi đây là chủ thể tư pháp nòng cốt hợp thành bản chất dân chủ của hoạt động tố tụng, bảo đảm hiệu quả của mô hình TTHS Việt Nam, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

2. Về việc phân định các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự:

Bên cạnh việc quán triệt Nghị Quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị nhằm xác định rõ thẩm quyền của từng cơ quan tiến hành tố tụng, mối quan hệ giữa các cơ quan, người tiến hành tố tụng và các thiết chế bổ trợ tư pháp, những người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vận hành hiệu quả, điều quan trọng là phải phân định rành mạch các chức năng cơ bản của TTHS.

Một điểm chung của các mô hình TTHS nào thì trong TTHS luôn luôn tồn tại ba chức năng cơ bản: Chức năng buộc tội, chức năng bào chữa và chức năng xét xử. Các chủ thể được giao thực hiện các chức năng nói trên đều có chung nhiệm vụ là đi tìm sự thật vụ án, tìm đến chân lý khách quan của sự việc, bảo đảm quá trình giải quyết vụ án được đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, cùng với việc thể chế hóa chủ trương của Đảng về xây dựng một nền công tố mạnh, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát lớn hơn, toàn diện hơn trong hoạt động điều tra, thực hiện cơ chế công tố gắn liền với hoạt động điều tra, cần khẳng định nguyên tắc Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử, không có trách nhiệm chứng minh tội phạm, giữ vai trò là trọng tài trung lập, điều khiển việc xét hỏi, tranh luận, ra phán quyết trên cơ sở kết quả tranh tụng dân chủ giữa bên buộc tội và bên gỡ tội tại phiên tòa.

Chúng tôi nhất trí với nội dung đề án về chủ trương nâng cao vị trí, vai trò của người bào chữa, bảo đảm các quyền và nghĩa vụ của người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong các giai đoạn TTHS. Đây chính là nền tảng cho việc bảo đảm dân chủ hóa hoạt động tố tụng, tạo thế độc lập, bình đẳng với các chủ thể có chức năng buộc tội.Điều này có nghĩa là ở đâu có việc buộc tội thì ở đó quyền bào chữa phải được thực hiện và tôn trọng nhằm chứng minh bị can, bị cáo không phạm tội hoặc giảm tội, giảm mức hình phạt; đưa Tòa án thực sự là hiện thân của công lý, của sự khách quan, vô tư trong quá trình xét xử vụ án.

Chủ trương nâng cao vị trí, vai trò của người bào chữa dựa trên quan niệm coi quyền bào chữa là quyền Hiến định, là một trong quyền tự do dân chủ trọng yếu trong các quyền tự do dân chủ của công dân, trở thành một nguyên tắc tố tụng căn bản phải được tôn trọng và triệt để thực hiện. Như Thông tư 2225 năm 1956 của Bộ Tư pháp, khi kiểm điểm công tác tư pháp đã nhấn mạnh: Xâm phạm đến quyền tự do bào chữa thì không thể nào thực hiện được các quyền tự do dân chủ khác, mặc nhiên thủ tiêu các quyền tự do đó. Hơn nữa, chế độ bào chữa là một chế độ trọng yếu trong tố tụng, giúp cho công tác xét xử tiến hành được toàn diện và khách quan, xét xử được chính xác, bênh vực được quyền lợi hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ pháp luật Nhà nước. Do đó, nếu người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không được sử dụng đầy đủ quyền bào chữa, luật sư không có được vị thế bình đẳng, độc lập khi tham gia tố tụng thì không gọi là có công lý.

Chúng tôi đề nghị, cần nghiên cứu, tiếp thu một số nguyên tắc đặc trưng của mô hình TTHS tranh tụng vào điều kiện cụ thể của mô hình TTHS thẩm vấn, trong đó cần bổ sungnguyên tắc tranh tụng như là một trong những nguyên tắc cơ bản của TTHS Việt Nam; nguyên tắckhông thể buộc tội một người nếu người đó không được sự trợ giúp về mặt pháp lý.

Ngoài ra, cần phải xây dựng cơ chế và biện pháp bảo đảm cho người bào chữa được thực hiện chức năng gỡ tội mà không bị đe dọa, cản trở, quấy rối hoặc can thiệp, cũng như phải gánh chịu các chế tài hành chính, hình sự hoặc kinh tế khi họ đang thực hiện trách nhiệm, nghĩa vụ và quy tắc đạo đức ứng xử của mình. Cần bảo đảm người bào chữa được miễn trừ trách nhiệm dân sự và hình sự đối với các văn bản trình bày trên tinh thần thiện chí và những nội dung tranh luận hoặc thực hiện kỹ năng nghề nghiệp trước các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Bảo đảm cho người bào chữa được quyền tiếp cận các thông tin, tài liệu, chứng cứ mà cơ quan điều tra thu thập được ngay trong quá trình điều tra trong một khoảng thời gian hợp lý để có thể tư vấn, trợ giúp pháp lý hiệu quả cho khách hàng…

3.    Về địa vị pháp lý của người bào chữa:

Như trong Đề án đã phân tích rất rõ, hiện nay TTHS Việt Nam phân chia các chủ thể tố tụng thành hai loại: chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng. Trong số các chủ thể tham gia tố tụng, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự được “xếp hàng” chung với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người giám định, người phiên dịch.

Do địa vị pháp lý của người bào chữa chỉ là người tham gia tố tụng, phạm vi hoạt động thuộc lĩnh vực “bổ trợ tư pháp” nên thực chất luật sư chỉ là người trợ giúp pháp lý mang tính bị động, không có cơ sở cho việc hành nghề một cách bình đẳng và độc lập. Trong một chừng mực nào đó, quyền năng của luật sư là thứ quyền năng phái sinh, phụ thuộc hoàn toàn vào sự chấp thuận hay không của các cơ quan và những người tiến hành tố tụng.Còn thiếu cơ chế bảo đảm thực hiện quyền của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là cơ chế bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo; ý kiến tranh luận, tranh tụng của luật sư vẫn chưa thực sự được coi trọng, không ít bản án, quyết định của Tòa án chưa thực sự dựa trên kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, dẫn đến số lượng bản án bị hủy, sửa chiếm tỷ lệ khá cao.

Thực chất quan niệm coi hoạt động của người bào chữa thuộc phạm vi “bổ trợ tư pháp” xuất phát từ thực tiễn là hành nghề của người bào chữa thường gắn rất chặt với hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử của Tòa án. Về mặt lịch sử, tổ chức xã hội- nghề nghiệp của Luật sư (Đoàn Luật sư) thường được thành lập trong phạm vi thẩm quyền tài phán của Tòa án địa phương theo công thức: Tòa án địa phương/ Đoàn Luật sư địa phương/ Tổ chức hành nghề luật sư địa phương. Lịch sử nghề luật sư có giai đoạn được hình thành như một bộ phận trực thuộc nằm trong TAND tối cao. Chính từ thực tiễn này đã tạo cơ sở cho việc hình thành quan niệm coi hoạt động nghề nghiệp của luật sự thuộc dạng “bổ trợ tư pháp” thuộc phạm vi quản lý Nhà nước của Bộ Tư pháp và các Sở Tư pháp địa phương, thuộc diện quản lý chung như cả đối với hoạt động giám định, công chứng, thừa phát lại…

Như trên đã đề cập, xét về bản chất thì chức năng bào chữa tồn tại độc lập và đối trọng với chức năng buộc tội như một tất yếu khách quan tự thân của TTHS. Quan niệm coi hoạt động của người bào chữa thuộc khuôn khổ của các hoạt động bổ trợ tư pháp, vô hình trung đã giảm nhẹ ý nghĩa và các giá trị xã hội mà chủ thể này mang lại cho sự phát triển của dân chủ nói chung và hoạt động tư pháp nói riêng. Do người bào chữa nói chung (luật sư nói riêng) chưa được thừa nhận là mộtchức danh tư pháp độc lập nên chưa phát huy được vai trò phản biện, đóng góp vào quá trình dân chủ hóa hoạt động tố tụng và trong xã hội, đấu tranh và bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp. Ranh giới giữa phạm vi hành nghề dịch vụ pháp lý cho xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân, với việc bảo vệ công lý, công bằng và chính nghĩa, góp phần phát triển kinh tế chưa được làm rõ. Nói cách khác, nhận thức của xã hội, của chính các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và xét xử về luật sư còn nhiều cản ngại, chưa được xem xét và đặt trong tổng thể thế tương tác và phản biện như là một thành tố vận hành trong hệ thống các chủ thể tư pháp thống nhất, chưa coi chế định luật sư, cùng với chế định Viện kiểm sát và Tòa án như là một trong ba chiếc cánh trụ cột nâng đỡ nền tư pháp nước nhà.

Chỉ có thể nói đến dân chủ, tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong hoạt động tư pháp khi luật sư có được vị thế bình đẳng thật sự với các chủ thể tiến hành tố tụng, là nhận tố hướng đến bảo đảm sự công bằng, góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án, bảo vệ công lý. Do vậy, chúng tôi đề nghị Ban soạn thảo Đề án nghiên cứu vấn đề xem xét lại địa vị pháp lý của người bào chữa theo hướng coi người bào chữa là một chủ thể tư pháp độc lập, có tư cách bình đẳng với các chủ thể tiến hành tố tụng, mở rộng một số nhiệm vụ, quyền hạn trong quá trình tham gia tố tụng, nhất là việc thu thập, đánh giá chứng cứ, cơ chế tham gia và bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của người tạm giữ, bị can, bị cáo (phần này, chúng tôi đã có báo cáo riêng chuẩn bị tham gia góp ý cho việc sửa đổi Bộ luật TTHS năm 2003).

4. Về diện chủ thể người bào chữa trong tố tụng hình sự:

Xuất phát từ nhận định về thực trạng của đội ngũ luật sư Việt Nam còn thiếu về số lượng và hạn chế về chất lượng, cũng như tỷ lệ tham gia của luật sư thời gian qua chỉ chiếm khoảng 20% vụ án hình sự, nên một trong những phương hướng và nội dung hoàn thiện mô hình TTHS của Đề án là: “Cần mở rộng các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa theo hướng ngoài luật sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên nhân dân, thì bất kỳ ai là người thân thích của hoị (như cha, mẹ, vợ, chồng, anh chị em, người đại diện hợp pháp, người thân thích khác) có khả năng bào chữa và được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận đều được tham gia bào chữa”.

Về vấn đề này, chúng tôi nhận thấy, theo quy định tại khoản 1 điều 56 BLTTHS, người bào chữa có thể là:(a) Luật sư;(b) Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo;và (c) Bào chữa viên nhân dân.Tuy nhiên, có thể khẳng định, diện chủ thể người bào chữa hiện nay đã là quá rộng, một số đối tượng chưa quy định tiêu chuẩn, điều kiện đáp ứng yêu cầu của việc tham gia bào chữa, hiệu quả tham gia tố tụng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo còn hạn chế. Cụ thể:

Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo :

Khái niệm “người đại diện hợp pháp”của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chưa được quy định cụ thể trong pháp luật thực định, không đồng nhất với khái niệm “người đại diện theo pháp luật” hay “người thân thích” của họ ?  Cha, mẹ, anh chị em ruột (trong trường hợp cha mẹ không còn) đối với người chưa thành niên và là người giám hộ đối với người được giám hộ có thể coi là người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo ? Thủ tục và chứng minh quan hệ huyết thống chưa được quy định.

Đối với người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất, người đại diện hợp pháp có thể thực hiện đồng thời cả hai tư cách: Vừa là người bào chữa, đồng thời là người đại diện hợp pháp của họ không ? Trong khi đó, thực tiễn TTHS có rất ít trường hợp người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tham gia tố tụng và được cấp Giấy chứng nhận người bào chữa (GCNNBC).

Bào chữa viên nhân dân :

Về mặt lịch sử, đây là một chế định đặc thù, hình thành từ bối cảnh cuộc kháng chiến chống Pháp theo Sắc lệnh 69/SL ngày 18/6/1949 , được duy trì cho đến trước khi ban hành Pháp lệnh tổ chức luật sư năm 1987.

Tuy nhiên, theo khoản 3 điều 57 BLTTHS quy định: “Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình”. Khái niệm “bào chữa viên” đã trở thành “bào chữa viên nhân dân”, nhưng tiêu chuẩn, điều kiện, thủ tục và quản lý danh sách bào chữa viên nhân dân nói trên như thế nào không được pháp luật quy định.Thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cũng rất ít khi các cơ quan THTT cấp GCNNBC cho bào chữa viên nhân dân.

Riêng đối với trợ giúp viên pháp lý, thực chất họ làluật sư, cộng tác viên do Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước cử ra theo Luật trợ giúp pháp lý năm 2006, nhằm bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là những người thuộc diện: (a) Người nghèo; (b) Người có công với cách mạng; (c) Người già cô đơn, người tàn tật và trẻ em không nơi nương tựa; (d) Người dân tộc thiểu số thường trú ở vùng có điều kiện kinh tế- xã hội đặc biệt khó khăn.

Theo điều 38 Luật trợ giúp pháp lý, Trung tâm có trách nhiệm phối hợp với cơ quan điều tra theo dõi, quản lý quá trình thực hiện trợ giúp pháp lý (có mẫu các văn bản tố tụng khác với quy định của Luật Luật sư và BLTTHS), nhưng thực tế chưa thực hiện được, hiệu quả trợ giúp còn thấp.

Liên quan vấn đề này, Nghị Quyết số 49-NQ/TW của Đảng đã chỉ rõ: “Hoàn thiện cơ chế bảo đảm để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên toà, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư”. Mặt khác, vào ngày 5/7/2011, Thủ tướng Chính phủ đã chính thức ký quyết định số 1072/QĐ-TTg phê duyệt “Chiến lược phát triển nghề luật sư đến năm 2020”. Có thể khẳng định, một trong những định hướng quan trọng trong chiến lược phát triển nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay là cùng với việc tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ luật sư, cần nâng cao tính chuyên nghiệp của luật sư trong hành nghề để thực thi có hiệu quả hơn nữa khả năng cung cấp dịch vụ pháp lý cho người dân, bảo đảm việc tham gia một cách rộng rãi các phạm vi hành nghề. Muốn đàm bảo thực hiện tốt chức năng gỡ tội trong TTHS, tham gia một cách bình đẳng trong việc góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án, một trong những nhiệm vụ quan trọng là nâng cao vị thế, quyền hạn và trách nhiệm của người bào chữa, đòi hỏi người bào chữa không chỉ có phẩm chất đạo đức, mà còn phải có những kỹ năng được đào tạo chuyên nghiệp, được trui rèn, thử thách trong thực tiễn đời sống tố tụng.

Do đó, theo chúng tôi, bên cạnh việc xem xét lại chế định bào chữa viên nhân dân, cần tập trung chức năng gỡ tội vào diện chủ thể hoạt động mang tính chuyên nghiệp là luật sư.

5.   Đơn giản hóa, đi đến bãi bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận người bào chữa:

Chúng tôi hoàn toàn thống nhất với định hướng nêu trong Đề án là tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng, tiếp cận với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thông qua việc đơn giản hóa thủ tục cấp Giấy chứng nhận người bào chữa và thủ tục tham gia bào chữa.

Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, do quyền tự bào chữa và nhờ người khác bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là quyền Hiến định, được ghi nhận trong Hiến pháp 1992 và Bộ luật TTHS năm 2003. Đó là quyền đương nhiên thuộc về người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và của người bào chữa. Vì thế, bên cạnh việc xem xét đề nghị nêu trong Đề án là giấy chứng nhận người bào chữa được cấp một lần và có giá trị cho toàn bộ các giai đoạn tố tụng, chúng tôi đề nghị Ban soạn thảo Đề án nghiên cứu và mạnh dạn đề xuất hủy bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận người bào chữa. Khi có yêu cầu của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp, người thân thích của họ, người bào chữa chỉ cần xuất trình văn bản yêu cầu của đương sự, Thẻ luật sư và giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư là được chấp nhận tư cách người bào chữa.

6. Về việc bổ sung một số quyền của người bào chữa trong TTHS:

Bên cạnh việc hoàn thiện chế định về người bào chữa theo hướng coi đây là một chủ thể tư pháp độc lập, có quyền thu thập chứng cứ, yêu cầu các cơ quan tổ chức cung cấp chứng cứ và tham gia một số hoạt động tố tụng khác, đồng thời phán quyết của Tòa án phải xuất phát từ kết quả tranh tụng dân chủ và bình đẳng tại phiên tòa, chúng tôi xin có một số góp ý cụ thể về việc bổ sung một số quyền của người bào chữa trong TTHS như sau:

– Cần quy định cho phép người bào chữa được quyền tiếp xúc, làm việc riêng tư trong tầm nhìn chứ không trong tầm nghe với người bị tạm giữ, bị can ngay từ trong giai đoạn điều tra. Những thông tin, nội dung trao đổi giữa người bào chữa với người bị tạm giữ, bị can không được coi là chứng cứ chống lại họ, trừ trường hợp những thông tin này liên quan đến một tội phạm đang xảy ra hoặc dự tính sẽ xảy ra.

– Cần thay đổi quan niệm về chứng cứ và bổ sung một số quyền của người bào chữa trong quá trình điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, đề cao trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc hỗ trợ người bào chữa trong việc thu thập chứng cứ (như triệu tập nhân chứng trước Tòa hay yêu cầu cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ…). Trong giai đoạn điều tra, ngoài các quyền được quy định tại điều 58 BLTTHS, người bào chữa được quyền nhận thông tin và chứng cứ do cơ quan điều tra thu thập như kết quả giám định (thương tật, tình trạng tâm thần, thiệt hại tài sản, vật chứng, tài chính- kế toán, tiếng nói, chữ viết…), tham gia chứng kiến việc khám nghiệm hiện trường, thực nghiệm điều tra, đấu giá, kê biên, niêm phong tài sản… Chữ ký của người bào chữa trên các tài liệu, biên bản điều tra, biên bản xác minh có giá trị pháp lý chứng minh tính hợp pháp của chứng cứ thu thập được trong quá trình điều tra.

– Trong giai đoạn quyết định truy tố, người bào chữa ngoài việc được phép sao chụp hồ sơ vụ án, có quyền yêu cầu và đề xuất liên quan việc cung cấp chứng cứ, tiến hành giám định bổ sung, giám định lại, tham gia các buồi phúc cung, tổ chức đối chất do Kiểm sát viên chủ trì; đồng thời có quyền và được giải quyết, trả lời về các khiếu nại, tố cáo về các hành vi tố tụng của các cơ quan và người tiến hành tố tụng.

– Cần quy định lại trình tự xét hỏi tại phiên tòa theo hướng Kiểm sát viên thực hành quyền công tố và người bào chữa là các chủ thể chính thực hiện việc thẩm vấn, chủ tọa và Hội đồng xét xử có trách nhiệm điều khiển và duy trì trật tự tại phiên tòa, chấp nhận hay không chấp nhận các yêu cầu của bên buộc tội và bên gỡ tội.

– Cần thể chế hóa định hướng đã được nêu trong Nghị quyết 08 ngày 2/01/2002 của Bộ Chính trị là “nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Cụ thể, nội dung bản án bắt buộc phải ghi nhận và thể hiện quan điểm của Hội đồng xét xử về ý kiến tranh luận của người bào chữa, coi đây là một trong những căn cứ xác định có việc vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hay không khi xem xét hiệu lực của bản án.-

TS. LS Phan Trung Hoài
Ủy viên Ban Thường vụ, Chủ nhiệm Ủy ban Bảo vệ Quyền lợi Luật sư
Phó Trưởng Tiểu ban Luật TTHS – Liên đoàn Luật sư Việt Nam