Phần mở đầu
- Khái quát chung về vụ án hành chính.
Sự hình thành tố tụng hành chính
Khi thực hiện hành vi hành vi quản lý nhaban hành văn bản quản lý hành chính (văn bản pháp quy và văn bản cá biệt) và thực hiện các hành vi hành chính khác, các cơ quan nhà nước hoặc công chức nhà nước có thẩm quyền do sơ xuất, thực hiện không đúng hoặc vì những lý do khác có thể xâm hại đến quyền, lợi ích chính đáng của công dân.
Từ đó dẫn đến việc công dân, tổ chức khiếu nại để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của công dân và đã gửi khiếu nại đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để yêu cầu chấm dứt hoặc khắc phục bồi thường tạo nên tranh chấp giữa cơ quan nhà nước ( công quyền) với công dân hoặc tổ chức(chủ thể quản lý).
Đối với những quan hệ pháp luật phát sinh như vậy, dù muốn hay không Nhà nước phải có những quy định để xem xét và giải quyết các tranh chấp hành chính giữa các cơ quan nhà nước với công dân, tổ chức. Qua đó phải có cơ quan có thẩm quyền có tinh thần trách nhiệm đứng ra xem xét và giải quyết.
Ngày 21 tháng 5 năm 1996 tại kỳ họp khoá XI, Quốc Hội đã thông qua Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án Hành Chính và kể từ ngày 1/7/1996 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính có hiệu lực và cũng kể từ đó Toà hành chính thuộc hệ thống Toà án nhân dân bắt đầu đi vào hoạt động. Nếu các tranh chấp hành chính trước đây chỉ có thể giải quyết theo thủ tục khiếu nại thì bây giờ còn có thể giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Toà án ( khởi kiện tại Toà án ).Ngày 2 tháng 7 năm 2002, Uỷ ban thường vụ Quốc Hội ban hành pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính thay thế cho pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính ngày 6 tháng 7 năm 1995 và có hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 2002.
2. Khái niệm vụ án hành chính và tố tụng hành chính .
2.1 Khái niệm vụ án hành chính
Điều 1 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 21/5/1996 quy định: cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu toà án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cuả mình”.
Như vậy, song song với các quyền Tố tụng kinh tế và tố tụng lao động, tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, Nhà nước ta đã quy định cho cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức có quyền khởi kiện về hành chính để yêu cầu Toà án nhân dân bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vụ án hành chính chỉ phát sinh khi Toà hành chính có thẩm quyền thụ lý đơn của các cá nhân, cơ quan nhà nước hay tổ chức. Do đó, vụ án hành chính là vụ án phát sinh tại Toà hành chính do cá nhân hay cơ quan nhà nước, tổ chức khởi kiện ra trước toà án yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2.2 Khái niệm Luật Tố tụng hành chính
Luật Tố tụng hành chính là một ngành Luật độc lập trong hệ thống pháp luật của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tố tụng hành chính phát sinh giữa Toà án với những người tham gia tố tụng và những người tiến hành tố tụng khác trong quá trình Toà án giải quyết vụ án hành chính, nhằm bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan nhà nước và các tổ chức.
B-Phần nội dung
Những nội dung về khởi kiện vụ án hành chính – Cơ sở pháp lý và ý nghĩa thực hành.
Nội dung về khởi kiện vụ án hành chính- cơ sở pháp lý
Trong quá trình giải quyết vụ án Hành Chính thì thủ tục bắt đầu từ khi người khởi kiện có đơn khởi kiện đến Toà án và toà án thụ lý vụ án cho đến giai đoạn Chuẩn bị xét xử, Phiên toà sơ thẩm, giai đoạn phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm và việc thực thi phán quyết của Toà án.
Nội dung bài viết này chỉ đề cập chính vào giai đoạn khởi kiện vụ án hành chính – cơ sở pháp lý và ý nghĩa thực hành. Và mặc dù chỉ là một giai đoạn của một vụ án hành chính tuy nhiên nó cũng phải đáp ứng đầy đủ những đặc trưng và cơ sở pháp lý của vụ án hành chính. Giai đoạn này bắt đầu từ khi Toà án nhận được đơn khởi kiện của phía khởi kiện và bắt đầu thụ lý cho đến khi chuẩn bị xét xử. Trong giai đoạn này Toà án căn cứ vào chức năng, thẩm quyền của mình và trên cơ sở các căn cứ pháp luật để ra những quyết định đúng đắn như: trả lại đơn khởi kiện, thông báo cho phía người khởi kiện biết về việc nộp tiền tạm ứng án phí, áp dụng các biệm pháp khẩn cấp tạm thời nếu cần….Do vậy cần phải đảm bảo và dựa trên các cơ sở sau để giải quyết cho thấu đáo:
1. Các nguyên tắc chính giải quyết vụ án hành chính
Nguyên tắc tự định đoạt
Theo nguyên tắc này các bên có quyền khởi kiện tại toà án có thẩm quyền, thay đổi nội dung kiện
1.2. Nguyên tắc các bên đương sự có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh.
Trong vụ án phi hình sự nói chung và hành chính nói riêng, việc chứng minh là do các bên đương sự. Theo đó các bên có nghĩa vụ cung cấp các văn bản pháp lý, cung cấp chứng cứ để bảo vệ quan điểm của mình. Khi cần thiết, Toà án xác minh, thu thập chứng cứ hoặc yêu cầu các bên liên quan cung cấp.
1.3. Nguyên tắc không tổ chức hoà giải .
Trong vụ án hành chính, Toà án không được tổ chức hoà giải mà chỉ tạo điều kiện để các bên có thể thoả thuận giải quyết vụ án.
1.4. Nguyên tắc về giai đoạn: tiền tố tụng hành chính
Theo nguyên tắc này chủ thể phải khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu. Khi nào cơ quan này không giải quyết hoặc giải quyết không thoả đáng, thì người khởi kiện mới có quyền khởi kiện ra toà .
1.5. Nguyên tắc về việc tham gia tố tụng của Viện kiểm sát .
Đối với vụ án hành chính, trong một số trường hợp Viện kiểm sát có quyền khởi tố vụ án. Viện kiểm sát bắt buộc phải có mặt trong các phiên toà hành chính.
1.6. Nguyên tắc về thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ đối với vụ án hành chính.
Đối với các bản án, quyết định của Toà án về vụ án hành chính đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị cho là không đúng, Thủ tướng Chính phủ có quyền yêu cầu Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao xem xét, giải quyết và trả lời trong vòng 30 ngày.
Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính.
Đối tượng khởi kiện vụ án hành chính gồm hai loại là Quyết định hành chính và hành vi hành chính.
Theo quy định tại điều 4 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì: Quyết định hành chính là quyết định bằng văn bản của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính Phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, cơ quan Nhà nước địa phương, các Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp được áp dụng một lần đối với một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể. Hành vi hành chính quy định trong Pháp lệnh này là hành vi thực hiện hoặc không thực hiện công vụ của cán bộ, viên chức nhà nước.
3. Về yêu cầu khởi kiện trong vụ án hành chính.
3.1. Đối với Quyết định hành chính mà cá nhân, tổ chức cho rằng đã xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình và quyết định kỷ luật buộc thôi việc cán bộ, công chức thì các chủ thể khởi kiện vụ án hành chính có quyền yêu cầu Toà án huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ các Quyết định hành chính, Quyết định khiếu lại buộc thôi việc đó.
3.2. Đối với hành vi hành chính. Cá nhân tổ chức có quyền yêu cầu Toà án buộc người bị khởi kiện phải thực hiện hành vi trong trường hợp hành vi không làm của cán bộ, viên chức Nhà nước xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện hoặc yêu cầu Toà án buộc chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật.
3.3. Người khởi kiện cũng có quyền yêu cầu, cơ quan Nhà nước, cá nhân bồi thường thiệt hại do Quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính gây thiệt hại cho mình. Việc xác định yêu cầu khởi kiện trong vụ án hành chính có ý nghĩa quan trọng trong thực tiễn, làm cơ sở để Toà án giải quyết vụ án, đồng thời giúp cho người khởi kiện bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính người khởi kiện có quyền rút một phần hoặc toàn bộ nội dung đơn kiện. Bên người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định hành chính, khắc phục hành vi hành chính bị khiếu kiện, có quyền phản bác yêu cầu của người khởi kiện, hoặc đề xuất yêu cầu của người khởi kiện. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể có yêu cầu độc lập hoặc cùng tham gia tố tụng với bên đương sự khác.
4. Người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính. (Khoản 2 Điều 4 PLTTGQCVAHC quy định).
4.1. Người khởi kiện.
Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan Nhà nước tổ chức cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi Quyết định hành chính hay hành vi hành chính của cơ quan Nhà nước của cơ quan Nhà nước, của Thủ tướng, cán bộ công chức Nhà nước nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.
4.2. Bên bị kiện.
Bên bị kiện là cơ quan Nhà nước, thủ trưởng, cán bộ, viên chức Nhà nước đã ra Quyết định hành chính hay hành vi hành chính mà người khởi kiện cho rằng trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ nên đã khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền.
4.3. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức do có việc khởi kiện vụ án hành chính của người khởi kiện đối với bên bị kiện mà việc giải quyết vụ án hành chính đó có liên quan đến quyền lợi hoặc nghĩa vụ của họ.
Trong vụ án hành chính, việc xác định đúng tư cách của các chủ thể có ý nghĩa to lớn trong việc giải quyết vụ án, giúp cho Toà án xác định được người khởi kiện có thẩm quyền khởi kiện hay không còn người bị kiện có phải là chủ thể ra Quyết định hành chính khiếu kiện hay không ? Còn đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong vụ án hành chính, vai trò của chủ thể này có trường hợp vô cùng quan trọng, thậm chí nội dung, tranh chấp trong vụ án hành chính là quan hệ trực tiếp giữa người này với người khởi kiện.
5. Điều kiện khởi kiện vụ án hành chính.
Điều 2 PLTTGQCVA Hành chính quy định ”Trước khi khởi kiện để yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cá nhân, cơ quan Nhà nước, tổ chức, phải khiếu nại với cơ quan Nhà nước, người đã ra Quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà họ cho là trái pháp luật, trong trường hợp không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, thì họ có quyền khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của Nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính mà theo quy định của pháp luật có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đó hay khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án có thẩm quyền”.
Trước khi khởi kiện vụ án hành chính, người có quyền lợi bị xâm hại phải thực hiện giai đoạn :”tiền tố tụng” hành chính, tức là khiếu nại cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu. Đối với việc kiện Quyết định hành chính (Không phải quyết định kỷ luật buộc thôi việc) và Hành vi hành chính thì khi cơ quan ra quyết định hành chính hay có hành vi hành chính không giải quyết hoặc có văn bản giải quyết không thoả đáng mới có quyền khởi kiện, còn đối với việc kiện quyết định kỷ luật buộc thôi việc thì chỉ khiếu kiện khi cấp ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc có văn bản giải quyết không thoả đáng mới có quyền khởi kiện. Như vậy Quyết định kỷ luật buộc thôi việc áp dụng đối với cán bộ, công chức thì chưa thể bị buộc thôi việc phải khiếu nại đến cơ quan người có thẩm quyền ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc và chỉ được khởi kiện vụ án hành chính ở Toà án khi cơ quan người có thẩm quyền ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc có văn bản giải quyết khiếu nại không thoả đáng.
Trong quan hệ về tố tụng hành chính, việc quy định về điều kiện khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án nhân dân là rất cần thiết, nhằm hạn chế việc khiếu kiện tràn lan đồng thời thiết lập được trình tự, thủ tục khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án được hợp lý hơn .
6. Thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính
Thời hiệu khởi kiện trong vụ án hành chính được chia ra làm hai loại tuỳ thuộc vào đối tượng khởi kiện hành chính.
Đối với việc kiện quyết định hành chính (không phải quyết định kỷ luật buộc thôi việc) và Hành vi hành chính. Khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu không giải quyết hoặc có văn bản giải quyết khiếu nại không thoả đáng, thì cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm phạm có quyền khởi kiện trong thời hạn 30 ngày trong trường hợp nơi đi lại bình thường và thời hạn 45 ngày đối với nơi đi lại khó khăn, được tính kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại mà người khởi kiện cho rằng việc giải quyết khiếu nại này là không thoả đáng.
Đối với việc kiện Quyết định kỷ luật buộc thôi việc, thì thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính được xác định khi cấp ra quyết định kỷ luật buộc thôi việc có văn bản giải quyết không thoả đáng. Cán bộ, công chức bị kỷ luật buộc thôi việc có quyền khởi kiện trong thời hạn 30 ngày (nơi bình thường) đến 45 ngày (nơi đi lại khó khăn) kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại. Trường hợp vì ốm đau, thiên tại, dịch hoạ, đi công tác, học tập xa hoặc những trở ngại khách quan khác thì thời gian có trở ngại không tính vào thời hiệu khởi kiện.
Trong các quan hệ tố tụng nói chung và quan hệ tố tụng hành chính nói riêng, việc quy định thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính là vô cùng cần thiết, nhằm bảo đảm các quan hệ hành chính trong xã hội được ổn định, tránh tình trạng khiếu kiện kéo dài, gây ảnh hưởng đến hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân có thẩm quyền trong quá trình thực hiện chức năng của mình.
7. Thẩm quyền của toà án trong việc giải quyết vụ án hành chính.
7.1 Thẩm quyền của Toà án theo vụ việc :
Toà án có thẩm quyền giải quyết trong khiếu kiện quyết định hành chính về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính các loại :
Toà án có thẩm quyền giải quyết về việc khiếu kiện quyết định hành chính và hành vi hành chính được quy định tại Điều 11 PLTTGQCVAHC như sau:
Quyết định áp dụng biện pháp buộc tháo gỡ công trình xây dựng trái phép đối với nhà ở, công trình, vật kiến trúc kiên cố.
Khiếu kiện quyết định áp dụng các biện pháp xử lý hành chính với hình thức giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính.
Khiếu kiện quyết định về buộc thôi việc, trừ các quyết định về buộc thôi việc trong quân đội nhân dân và các quyết định về sa thải theo quy định của Bộ luật Lao động .
Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc cấp giấy phép, thu hồi giấy phép trong lĩnh vực về xây dựng cơ bản, hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý đất đai.
Khiếu kiện quyết định trưng dụng, trưng mua tài sản, quyết định tịch thu tài sản.
Khiếu kiện quyết định về thu thuế, trưng thu thuế.
Khiếu kiện quyết định về thu phí, lệ phí
Khiếu kiện các quyết định hành chính, hành vi hành chính khác theo quy định của pháp luật.
7.2. Thẩm quyền của Toà án theo cấp Toà.
Theo quy định tại Điều 12 của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì thẩm quyền của Toà án được phân cấp như sau :
Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Toà án nhân dân cấp huyện) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện hành chính đối với quyết định hành chính của cơ quan nhà nước từ cấp huyện trở xuống và QĐHC, HVHC của cán bộ, viên chức của cơ quan nhà nước đó.
Toà án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là Toà án cấp tỉnh) giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những khiếu kiện hành chính đối với :
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và quyết định hành chính, hành vi hành chính của thủ trưởng cơ quan đó mà người khởi kiện có nơi cứ trú, làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ .
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan chức năng thuộc một trong các cơ quan nhà nước quy định tại điểm a khoản 2 điều này và quyết định hành chính, hành vi hành chính của cán bộ, công chức của các cơ quan chức năng đó mà người khởi kiện có nơi cư trú, nơi làm việc hoặc trụ sở trên cùng lãnh thổ.
Khiếu kiện những quyết định hành chính, hành vi hành chính của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trên cùng lãnh thổ và của cán bộ, công chức của các cơ quan nhà nước đó.
Khiếu kiện quyết định buộc thôi việc của người đứng đầu cơ quan, tổ chức đối với cán bộ, công chức thuộc thẩm quyền quản lý của cơ quan, tổ chức đó, trừ những khiếu kiện quy định tại điểm b khoản 1 điều này.
Trong trường hợp cần thiết, toà án cấp tỉnh lấy lên để giải quyết sơ thẩm vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của Toà án cấp huyện đối với khiếu kiện QĐ hoặc của UBND, Chủ tịch UBND cấp huyện có liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp hoặc trường hợp các thẩm phán của Toà án cấp huyện đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
Toà án nhân dân tối cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm các bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án cấp tỉnh bị kháng cáo, kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm hay tái thẩm các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
7.3 Thẩm quyền của Toà án theo lãnh thổ .
Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính là toà án nơi “người bị kiện” làm việc hoặc có trụ sở trong trường hợp khiếu kiện cơ quan cấp tỉnh trở xuống, người đứng đầu các cơ quan nhà nước hoặc cán bộ, công chức của các cơ quan này.
Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính là Toà án nơi “người khởi kiện” làm việc hoặc cư trú đối với các khiếu kiện cơ quan trên cấp tỉnh; người đứng đầu; hoặc cán bộ, công chức của các cơ quan này.
Việc phân định thẩm quyền của Toà án trong việc giải quyết vụ án hành chính là một chế định quan trọng trong Tố tụng hành chính, nó tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan Toà án trong việc giải quyết các tranh chấp hành chính, đây được xem như là một bước chuyển biến quan trọng trong quá trình củng cố bước chuyển biến quan trọng trong quá trình củng cố; hoàn thiện bộ máy nhà nước, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước.
8. Các trường hợp trả lại đơn khởi kiện.
Theo quy định tại điều 31 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì đơn khởi kiện của cá nhân, tổ chức, khiếu kiện hành chính đến Toà án sẽ bị trả lại trong những trường hợp sau đây :
– Người khởi kiện không có quyền khởi kiện;
– Thời hiệu khởi kiện đã hết mà không có lý do chính đáng;
– Chưa hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu và chưa có quyết định giải quyết lần đầu;
– Đã hết thời hiệu giải quyết khiếu nại lần đầu mà không khiếu nại;
– Chưa có quyết định giải quyết lần đầu đối với khiếu nại quyết định kỷ luật buộc thôi việc.
– Đã có quyết định giải quyết khiếu nại của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo;
– Sự việc đã được giải quyết bằng bản án hay quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án;
– Việc khởi kiện không thuộc thẩm quyền của Toà án.
2. Khởi kiện vụ án hành chính –ý nghĩa thực hành (Đối với luật sư).
Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính sự tham gia của Luật sư có ý nghĩa rất quan trọng nhằm đảm bảo sự áp dụng và thực hiện pháp luật một cách đúng đắn. Nắm bắt tốt những vấn đề về khởi kiện sẽ giúp cho các luật sư vận dụng tốt những quy định của pháp luật trong việc giải quyết các vụ án hành chính nhằm nâng cao khả năng thực tiễn của Luật sư do đó đòi hỏi luật sư phải có những kỹ năng cơ bản chung và những kỹ năng trong việc giải quyết mỗi vụ án hành chính cụ thể. ở giai đoạn khởi kiện, khi khách hàng có nhu cầu nhờ luật sư tham gia vào giai đoạn này, thì các công việc và các kỹ năng của luật sư sẽ bao gồm những vấn đề sau:
1. Tư vấn cho khách hàng về việc quyết định khởi kiện hay không khởi kiện.
Luật sư giúp khách hàng thực hiện quyền tự định đoạt của họ thông qua việc phân tích các khía cạnh của vụ việc dưới góc độ pháp lý. Tại đây có thể xảy ra các tình huống khác nhau như có thể khách hàng muốn khởi kiện nhưng Luật sư thấy không cần thiết vì nếu giải quyết tranh chấp bằng con đường khác (khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo) sẽ có lợi hơn; có thể Luật sư cho rằng cần phải khởi kiện nhưng khách hàng thấy chưa thực sự thuyết phục … Trong các trường hợp đó Luật sư đều phải phân tích từ các khía cạnh pháp lý để khách hàng tự nhận thức được việc khởi kiện hay không khởi kiện là cần thiết. Sau khi đã hướng dẫn khách hàng để khách hàng quyết định khởi kiện hay không khởi kiện thì Luật sư cần tiếp tục thực hiện những công việc tiếp theo. Nếu khách hàng quyết định không khởi kiện ra trước Toà án mà lựa chọn khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại tiếp theo thì Luật sư cũng cần hướng dẫn khách hàng theo cách đó. Nếu khách hàng quyết định khởi kiện ra trước Toà án có thẩm quyền thì Luật sư cần tiếp tục hướng dẫn khách hàng về các vấn đề sau: (i) Khởi kiện ra trước Toà án nào; (ii) Thời gian tối đa do luật định để xem xét và giải quyết vụ án này là bao lâu; (iii) Họ cần phải chuẩn bị những gì để tham gia tố tụng được tốt… Trong giai đoạn này, Luật sư cũng cần hướng dẫn khách hàng để khách hàng hiểu rõ về thẩm quyền giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện vụ án đó. Luật sư cần kiểm tra lại thủ tục tiền tố tụng theo quy định của pháp luật để tránh những sai sót không đáng có.
2. Tư vấn việc viết đơn khởi kiện và chuẩn bị hồ sơ khởi kiện.
Để bảo đảm tính đầy đủ và chặt chẽ của đơn khởi kiện, tốt nhất là Luật sư tư vấn khách hàng viết đơn hoặc tự mình viết đơn cho khách hàng. Đơn phải đảm bảo chất lượng cả về mặt nội dung và hình thức: Theo điều 30 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính thì đơn khởi kiện phải có các nội dung sau:
– Ngày, tháng, năm làm đơn,
– Toà án yêu cầu giải quyết vụ án hành chính;
– Tên, địa chỉ của người khởi kiện, bên bị kiện;
– Nội dung quyết định hành chính hay tóm tắt diễn biến của hành vi hành chính;
– Nội dung văn bản trả lời của người hoặc cơ quan nhà nước về việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính mà người khởi kiện cho là trái pháp luật;
– Cam đoan không khiếu nại lên cấp trên trực tiếp của cơ quan nhà nước, người đã ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính;
– Các yêu cầu đề nghị Toà án giải quyết;
Trong đơn khởi kiện, cần phải chú trọng vào nêu diễn biến của vụ việc và nêu yêu cầu của người khởi kiện (phải nêu yêu cầu phù hợp với luật pháp). Đơn khởi kiện có thể viết tay hoặc đánh máy. Luật sư cần khuyên khách hàng đánh máy. Sau khi đơn khởi kiện được hoàn tất, Luật sư và khách hàng cần làm việc cùng nhau để xem lại lần cuối cùng trước khi gửi đơn cho Toà án có thẩm quyền.Luật sư hướng dẫn khách hàng ký đơn khởi kiện (với cá nhân) hoặc ký và đóng dấu (với cơ quan Nhà nước, tổ chức). Luật sư cũng cần lưu ý khách hàng là theo quy định của pháp luật thì người khởi kiện chỉ được uỷ quyền cho người khác tham gia tố tụng, chứ không được uỷ quyền cho người khác khởi kiện vụ án hành chính.
Luật sư cần hướng dẫn khách hàng kèm theo đơn khởi kiện là các tài liệu, giấy tờ cần thiết trong chừng mực nhất định để chứng minh cho những nội dung viết trong đơn
3. Hướng dẫn khách hàng nộp hồ sơ khởi kiện tại Toà án có thẩm quyền
Luật sư hướng dẫn cho khách hàng để khách hàng tự mình hoặc Luật sư đi cùng với khách hàng đi nộp hồ sơ khởi kiện tại Toà án có thẩm quyền. Trước khi nộp hồ sơ khởi kiện, Luật sư cũng cần trao đổi với khách hàng về các trường hợp Toà án có thể trả lại đơn khởi kiện và cách tính thời điểm Toà án thụ lý vụ án hành chính.
4. Yêu cầu đối với Luật sư trong giai đoạn khởi kiện vụ án hành chính.
Trường hợp đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích của người khởi kiện.
Trong giai đoạn này, bằng kiến thức pháp luật, trình độ, kinh nghiệm nghề nghiệp của mình, Luật sư có vai trò rất quan trọng đối với người khởi kiện. Để đảm bảo hiệu quả và tính có cơ sở pháp lý của việc khởi kiện, Luật sư cần nắm vững các vấn đề sau:
– Đảm bảo các điều kiện bắt buộc theo quy định của pháp luật về khởi kiện vụ án hành chính.
– Đảm bảo các điều kiện, thủ tục khởi kiện theo quy định của pháp luật tố tụng hành chính.
– Người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm, trừ trường hợp được miễn nộp tiền tạm ứng án phí.
– Người khởi kiện phải làm đơn yêu cầu Toà án có thẩm quyền giải quyết vụ án hành chính trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của Luật khiếu nại tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại đó. Đối với vùng sâu, vùng xa, vùng đi lại khó khăn thì các thời hạn khởi kiện nói trên là 45 ngày. Trường hợp vì ốm đau, thiên tai, dịch hoạ, đi công tác, học tập ở nơi xa hoặc vì những trở ngại khách quan khác mà người khởi kiện không khởi kiện được trong thời hạn nêu trên thì thời gian có trở ngại đó không được tính vào thời hiệu khởi kiện.
Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính và phải đảm bảo các yêu cầu của pháp luật.
– Trường hợp đại diện cho các đương sự khác.
Luật sư cần lưu ý một số quy định của pháp luật tố tụng hành chính có liên quan như:
– Chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ của người bị kiện (nếu đã nhận được thông báo của Toà án): có cần uỷ quyền không, uỷ quyền cho ai, phạm vi uỷ quyền; các văn bản pháp luật căn cứ vào đó để ra quyết định hành chính, hành vi hành chính; xem xét lại các hồ sơ tài liệu có liên quan của giai đoạn giải quyết khiếu nại, tố cáo (giai đoạn tiền tố tụng).
– Chuẩn bị các tài liệu, giấy tờ, các tình tiết có liên quan của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan .
Như vậy căn cứ vào các nội dung khởi kiện và các cơ sở pháp lý của Luật Hành Chính mà những vấn đề về khởi kiện vụ án hành chính đã được áp dụng và thực thi một cách đúng đắn đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia, đặc biệt khi có sự tham gia của Luật sư thì quá trình này càng được thực hiện tốt hơn.
C- Phần kết luận
Có thể thấy những quy định về khởi kiện vụ án hành chính này đã phần nào đảm bảo việc giải quyết vụ án hành chính được kịp thời, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cá nhân, cơ quan nhà nước và tổ chức. Từ đó góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Quy định như vậy có ý nghĩa thực hành vô cùng to lớn. Một mặt tạo cho công dân được quyền lựa chọn cơ quan nào đáng tin cậy để bảo vệ quyền lợi của mình sau khi khiếu nại được giải quyết mà theo họ không thoả đáng, mặt khác đây chính là dịp để các cơ quan hành chính nhà nước có điều kiện để kiểm tra và tự khắc phục những thiếu sót và những sai phạm của mình khi thực hiện hoạt động quản lý nhà nước.
Tuy vậy trên thực tế áp dụng chúng ta cũng cần phải có sự nhìn nhận đúng đắn cũng như ý thức tôn trọng pháp luật của các bên tham gia và cả với quyết định của các cơ quan có thẩm quyền nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật cao nhất.
Sưu tầm