Theo quy định Luật phá sản, khi doanh nghiệp, hợp tác xã được xem là phá sản khi mất khả năng thanh toán và bị Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản. Do doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đối với các khoản nợ, nên thông thường tài sản của doanh nghiệp không đủ để đảm bảo chi trả cho các chủ nợ cũng như nghĩa vụ về tài sản của doanh nghiệp đối với Nhà nước. Do vậy, để đảm bảo việc thanh toán, thực hiện thủ tục phá sản theo đúng trình tự, thủ tục việc phân chia tài sản đối với doanh nghiệp phá sản được thực hiện theo thứ tự quy định tại Điều 54 Luật phá sản 2014. Cụ thể như sau:
- Trường hợp Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản thì tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã được phân chia theo thứ tự sau:
- Chi phí phá sản;
- Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết;
- Khoản nợ phát sinh sau khi mở thủ tục phá sản nhằm mục đích phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hợp tác xã;
- Nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước; khoản nợ không có bảo đảm phải trả cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ; khoản nợ có bảo đảm chưa được thanh toán do giá trị tài sản bảo đảm không đủ thanh toán nợ.
2. Trường hợp giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã sau khi đã thanh toán đủ các khoản quy định tại các mục nêu trên mà vẫn còn thì phần còn lại này thuộc về:
- Thành viên hợp tác xã, hợp tác xã thành viên;
- Chủ doanh nghiệp tư nhân;
- Chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên;
- Thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, cổ đông của công ty cổ phần;
- Thành viên của Công ty hợp danh.
3. Trường hợp nếu giá trị tài sản không đủ để thanh toán theo quy định tại các mục nêu tại mục 1 nêu trên thì từng đối tượng cùng một thứ tự ưu tiên được thanh toán theo tỷ lệ phần trăm tương ứng với số nợ.