Chúng tôi sống chung với nhau từ năm 1989, đã sinh được hai con và tạo lập được một số tài sản nhưng không làm thủ tục đăng ký kết hôn. Nay hai chúng tôi muốn làm thủ tục tặng cho nhà cho các con nhưng lại không có giấy chứng nhận kết hôn thì có được không ? Nếu muốn tặng cho nhà cho các con thì phải làm những thủ tục gì? Con chúng tôi nhận tài sản bỗ mẹ tặng cho có được miễn thuế thu nhập cá nhân không ? Xin các bạn tư vấn giùm tôi.
Trả lời
“Cha mẹ cùng tặng cho tài sản cho con thì không cần Giấy đăng ký kết hôn” – Thạc sĩ, Luật sư Phạm Thanh Bình tư vấn cho bạn Hải An.
Theo quy định tại Điều 11 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì “Nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng”.
Tuy nhiên, tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTPTANDTC ngày 23/12/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và gia đình thì chỉ trong trường hợp anh chị chung sống với nhau từ ngày 03/07/1987 đến ngày 01/01/2001 nhưng chưa thực hiện đăng ký kết hôn trong thời hạn hai năm kể từ ngày 01/01/2001 đến 01/01/2003 thì về mặt pháp lý, anh chị không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Như vậy, thì khối tài sản chung do anh chị tạo lập nên được xác định là tài sản thuộc sở hữu chung của nhiều chủ sở hữu riêng biệt (Điều 214 Bộ luật Dân sự) chứ không phải là tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng (Điều 219 Bộ luật Dân sự).
Theo quy định tại Điều 214 Bộ luật Dân sự thì “Sở hữu chung là sở hữu của nhiều chủ sở hữu đối với tài sản… Tài sản thuộc hình thức sở hữu chung là tài sản chung”.
Tuy nhiên, khác với trường hợp hai người bạn cùng góp vốn, mua chung một tài sản, trong trường hợp cụ thể này, anh chị đã sống chung với nhau như vợ chồng hàng chục năm và cùng tạo lập được tài sản chung nên “phần quyền sở hữu của mỗi chủ sở hữu chung không được xác định đối với tài sản chung”. Do vậy, theo quy định tại Điều 217 BLDS thì đây là tài sản thuộc sở hữu chung hợp nhất và trong trường hợp đó, “Các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền, nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản thuộc sở hữu chung”(khoản 3 Điều 217 BLDS)
Việc định đoạt tài sản thuộc sở hữu chung được giải quyết theo quy định tại khoản 2 Điều 223 Bộ luật Dân sự, theo đó: “Việc định đoạt tài sản chung hợp nhất được thực hiện theo thoả thuận của các chủ sở hữu chung hoặc theo quy định của pháp luật”.
Để tặng cho khối tài sản chung cho các con, anh chị cần đến Văn phòng công chứng (nơi có tài sản) để lập Hợp đồng tặng cho tài sản và cùng ký vào Hợp đồng này. Khi lập Hợp đồng cần xuất trình Giấy chứng nhận quyền sở hữu đối với tài sản tặng cho, giấy CMND, sổ hộ khẩu của người tặng cho và người nhận tặng cho, các tài liệu chứng minh quan hệ nhân thân người tặng cho và người nhận tặng cho (giấy khai sinh của các con…) để tiện cho việc làm hồ sơ miễn thuế thu nhập cá nhân sau này.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Luật thuế thu nhập cá nhân, Điều 4 Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 Quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân thì “Thu nhập từ nhận thừa kế, quà tặng là bất động sản giữa vợ với chồng; cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ; cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi; cha chồng, mẹ chồng với con dâu; cha vợ, mẹ vợ với con rể; ông nội, bà nội với cháu nội; ông ngoại, bà ngoại với cháu ngoại; anh, chị, em ruột với nhau” là thu nhập được miễn thuế.
Thạc sĩ, Luật sư Phạm Thanh Bình công ty luật tư vấn